Chuyển giao nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự năm 2015

Chuyển giao nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có nghĩa vụ không tự mình thực hiện nghĩa vụ đã giao kết mà chuyển giao cho người khác (người thế nghĩa vụ) thực hiện nghĩa vụ giữa mình với bên mang quyền với điều kiện có sự đồng ý của chủ thể đó. Người có nghĩa vụ đã chuyển giao chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với bên mang quyền và không phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ. Bài viết trình bày những quy định của pháp luật về chuyển giao nghĩa vụ.

1. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự

Chuyển giao nghĩa vụ được quy định tại Điều 370 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) theo đó, người có nghĩa vụ không tự mình thực hiện nghĩa vụ đã giao kết mà chuyển giao cho người khác (người thế nghĩa vụ) thực hiện nghĩa vụ giữa mình với bên mang quyền với điều kiện có sự đồng ý của chủ thể đó. Người có nghĩa vụ đã chuyển giao chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với bên mang quyền và không phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ.
Như vậy, về bản chất, sự chuyển giao nghĩa vụ dân sự là sự chuyển dịch nghĩa vụ pháp lý từ chủ thể chuyển sang chủ thể nhận. Chủ thể nhận nghĩa vụ chính là người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước và trở thành bên có nghĩa vụ. Khi chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm đó cũng chấm dứt do sự chấm dứt tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

1.1. Điều kiện chuyển giao nghĩa vụ dân sự

Điều 370 BLDS quy định về chuyển giao nghĩa vụ dân sự, như sau:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm chấm dứt quan hệ giữa bên có nghĩa vụ ban đầu với bên có quyền làm phát sinh nghĩa vụ của người nhận chuyển giao với bên có quyền đó. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ đó vẫn phải gắn với lợi ích của bên có quyền nên mặc dù được chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba nhưng phải thỏa mãn các điều kiện sau:
– Nghĩa vụ được chuyển giao phải là nghĩa vụ có hiệu lực pháp lý và không thuộc những trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao nghĩa vụ.
Nghĩa vụ dân sự phải là những nghĩa vụ hợp pháp, phát sinh từ các căn cứ theo quy định của pháp luật và có thể thực hiện được trên thực tế.
Theo quy định của pháp luật, không được phép chuyển giao nghĩa vụ dân sự trong trường hợp nghĩa vụ “gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ” hoặc pháp luật quy định không được chuyển giao (như trường hợp nghĩa vụ đang có tranh chấp). Về nguyên tắc, các quyền nhân thân trong quan hệ pháp luật dân sự không được phép chuyển dịch cho người khác. Tương tự như vậy, khi một bên mang quyền nhân thân gắn liền với tài sản phải tạo ra một nghĩa vụ nhân thân của người khác và nghĩa vụ nhân thân này cũng không được chuyển giao cho người khác. Các trường hợp nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao như nghĩa vụ cấp dưỡng (đối với những người có quan hệ huyết thống, có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau theo quy định của pháp luật) hoặc các bên đã thỏa thuận phải do chính người đó thực hiện (dựa vào đặc điểm nhân thân của người đó có tính quyết định đến khả năng và chất lượng thực hiện công việc).
– Việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự phải có sự đồng ý của bên có quyền, vì suy cho đến cùng, việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ và việc lựa chọn người gánh vác nghĩa vụ thay thế cho người trước đó chính là lựa chọn rủi ro cho người mang quyền. Do vậy, pháp luật quy định bắt buộc phải có sự đồng ý của bên có quyền nhằm loại bỏ rủi ro đó. 
1.2. Hình thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về hình thức chuyển giao nghĩa vụ. Tuy nhiên từ các nguyên tắc cơ bản và các hình thức giao kết hợp đồng trong giao lưu dân sự và thương mại, có thể hiểu việc chuyển giao nghĩa vụ cũng được thực hiện thông qua hai hình thức là bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Nhằm tránh những nguy cơ có thể dẫn đến những rủi ro liên quan đến quyền lợi của các bên trong chuyển giao nghĩa vụ dân sự, những nội dung chuyển giao và cách thức, trình tự chuyển giao nên được trình bày đầy đủ trong văn bản thỏa thuận giữa các bên. Những trường hợp mà nội dung hoặc đối tượng của nghĩa vụ chuyển giao có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp hay đối tượng của nghĩa vụ là những tài sản do Nhà nước quản lý, kiểm soát thì việc chuyển giao nghĩa vụ cần phải được thể hiện bằng văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép.
1.3. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ gây ra.
Theo quy định tại Điều 371 BLDS, chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được quy định như sau:

“Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trường hợp nghĩa vụ được chuyển giao, các biện pháp bảo đảm xác lập nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cũng đương nhiên chấm dứt, bởi vì biện pháp bảo đảm đó là bảo đảm cho chính hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Bởi vì, việc chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế nghĩa vụ sẽ làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt, bên thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với bên có quyền. Mặt khác, việc chuyển giao nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền, khi đó bên có quyền tự lựa chọn rủi ro cho chính mình trong việc chấp nhận bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi kèm theo biện pháp bảo đảm trong quan hệ nghĩa vụ trước đó thì khi chuyển giao cho bên thứ ba biện pháp bảo đảm này phải chấm dứt nếu không có sự thỏa thuận khác.

2. Phương thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự

Phương thức chuyển giao nghĩa vụ có thể được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Về chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận:
Để có thể chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận thì cần có sự thống nhất ý chí của người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ. Sẽ không có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận nếu người thế nghĩa vụ không đồng ý về việc này, họ sẽ không trở thành người có nghĩa vụ đối với người có quyền nếu họ không đồng ý. Chuyển giao nghĩa vụ do đó là một thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ nhằm thực hiện một nghĩa vụ đang tồn tại vì lợi ích của người có quyền và làm chấm dứt trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền.
– Về chuyển giao nghĩa vụ theo pháp luật:
Thông thường, để có chuyển giao nghĩa vụ dân sự thì cần có thỏa thuận giữa bên có nghĩa vụ và bên thế nghĩa vụ, đồng thời việc này cần có sự đồng ý của người có quyền. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn có những quy định cho chuyển giao nghĩa vụ dân sự mà không có sự thỏa thuận hay ưng thuận nêu trên. Cụ thể, theo quy định của BLDS, khi cá nhân chết, nghĩa vụ về tài sản của cá nhân không đương nhiên chấm dứt và vấn đề xác định người thế nghĩa vụ được đặt ra. Điều 614 BLDS5 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”; và khoản 1 Điều 615 BLDS thì: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, khi những người thừa kế nhận di sản thừa kế thì phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản mà người chết để lại. Việc chuyển giao nghĩa vụ trong trường hợp này không cần có sự ưng thuận của những người liên quan.