Án lệ số 30, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xác định hành vi cố ý giết người dựa trên các tình tiết khách quan của vụ án, lời khai của bị cáo và nhân chứng để kết luận: (i)bị cáo đã có hành vi giết người khi vẫn nhận thức được đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của minh, và (ii) bị cáo biết rõ hậu quả chết người sẽ xảy ra và có mong muốn hậu quả này xảy ra hoặc có ý thức bỏ mặc hậu quả này xảy ra. Dưới đây là các quy định pháp luật có liên quan và phân tích, bình luận của Án lệ:
- QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN:
Các điều 93, 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với các điều 123, 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)).
- Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009)
Điều 93. Tội giết người
- Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
…
- Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
- Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
…..
- Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)
Điều 123. Tội giết người
- Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
….
- Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
…..
Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
- Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
- Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
…..

- PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN
- Phân biệt Tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và Tội “Giết người”
a, Tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
Những hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ không có tính chất nguy hiểm, không gây thiệt hại cho xã hội chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Đối với những hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có tính chất nguy hiểm cao, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác và hành vi có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ bị coi là tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự.
Nếu hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc gây thương tích, thiệt hại tài sản thì chưa cấu thành tội phạm (trừ trường hợp vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời). Hậu quả của tai nạn giao thông là một trong các căn cứ để xác định trách nhiệm mà người gây ra tai nạn phải gánh chịu.
Để phân biệt với tội “Giết người” thì tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” xảy ra khi chủ thể, tức người gây ra tai nạn không mong muốn hậu quả nạn nhân chết, không cố ý dùng mọi thủ đoạn tước bỏ tính mạng của nạn nhân.
b, Tội “Giết người”
Về hành vi, tội giết người cấu thành khi người phạm tội dùng mọi thủ đoạn nhằm tước đoạt mạng sống của người khác. Một người có thể cứu giúp người khác mà không cứu dẫn đến người đó chết cũng là hành vi của tội “Giết người”.
Nếu một người đã cố ý tước đoạt tính mạng nhưng nạn nhân không chết thì vẫn cấu thành tội Giết người. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể tước đoạt mạng sống của người khác, thấy trước hậu quả rằng nạn nhân có thể chết, không mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra thì vẫn cấu thành tội “Giết người”
Để phân biệt với tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thì tội “Giết người” xảy ra khi tội phạm có mong muốn nạn nhân chết và có hành vi cố ý tước bỏ tính mạng nạn nhân.
Hành vi cố ý điều khiển xe chèn lên bị hại sau khi gây tai nạn có thể cấu thành tội “Giết người” quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 nếu đáp ứng đầy đủ các đặc điểm sau đây.
Về mặt khách quan: Người phạm tội có hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân sau khi gây tai nạn. Đây thuộc dạng hành vi hành động. Hậu quả làm nạn nhân chết.
Về mặt chủ quan: Người thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được hành vi chèn xe của mình có thể dẫn đến nguyên nhân tử vong cho nạn nhân nhưng vẫn thực hiện và mong muốn nạn nhân thiệt mạng.
Về mặt khách thể: Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của con người được pháp luật hình sự bảo vệ; quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.
Về mặt chủ thể: Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Tóm tắt Án lệ
Sau khi gây ra tai nạn giao thông cho bị hại – Hoàng Đức P, bị cáo Phan Đình Q dừng xe xuống kiểm tra thấy bị hại nằm dưới gầm xe ô tô, tay phải nằm vắt ra ngoài, bánh phía sau bên phụ của ô tô đè lên phần vai, gáy của em P, phần mặt bên trái của P tiếp xúc với mặt đường. Không xác định được bị hại còn sống hay đã chết, bị cáo tiếp tục điều khiển xe chèn lên người bị hại. Hậu quả là bị hại chết.
Hướng giải quyết của Án lệ
Thẩm phán tuyên bố bị cáo Phan Đình Q phạm tội “Giết người” Áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b khoản 1,2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt: Phan Đình Q 13 (mười ba) năm 6 (sáu) tháng tù.
- Bình luận hướng giải quyết
Trong Án lệ số 30, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xác định hành vi có ý giết người dựa trên các tình tiết khách quan của vụ án, lời khai của bị cáo và nhân chứng để kết luận:
(i)bị cáo đã có hành vi giết người khi vẫn nhận thức được đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của minh, và
(ii) bị cáo biết rõ hậu quả chết người sẽ xảy ra và có mong muốn hậu quả này xảy ra hoặc có ý thức bỏ mặc hậu quả này xảy ra.
Trong tình huống án lệ, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội không giải thích rõ về hai giai đoạn trong diễn biến phạm tội gồm (1) bị cáo gây tai nạn giao thông do khi điều khiển xe chuyển hướng nhưng không quan sát kỹ; và (2) bị cáo có hành vi giết người sau khi kiểm tra tình trạng nạn nhân khi có tai nạn. Theo đó, nội dung án lệ không xác định cụ thể hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ của bị cáo là gì trong giai đoạn (1), nếu xảy ra hậu quả chết người thì có nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội hay không, hay nói cách khác có phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông hay không. Tuy nhiên, kết luận của án lệ là phù hợp, vì hành vi cố ý giết người trong giai đoạn (2) của bị cáo là rõ ràng.
Như đã phân tích ở trên, Án lệ số 30 đã đưa ra đường lối hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng chính xác hơn các quy định của pháp luật hình sự trong việc xác định hành vi giết người hay hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà làm chết người. Các kết luận được nêu tại Ấn lệ số 30 đã đánh giá chính xác được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như ý thức chủ quan của người phạm tội là cố ý giết người.
Mặc dù, đã có án lệ số 30/2020/AL và một số văn bản hướng dẫn về về hành vi cố ý điều khiển phương tiện giao thông chèn lên bị hại sau khi xảy ra tai nạn giao thông là phạm tội “Giết người” nhưng trong thực tiễn mỗi vụ án có những tình tiết riêng hoặc có một số trường hợp đối tượng thực hiện hành vi phạm tội giết người bằng phương tiện giao thông nhưng quá trình điều tra, việc chứng minh tội phạm và thu thập chứng cứ cũng như xác định các tình tiết định khung tăng nặng như “Có tính chất côn đồ” hoặc “ Thực hiện tội phạm một cách man rợ”… còn gặp nhiều khó khăn và thiếu thống nhất.
Ví dụ như nội dung vụ án sau đây do tác giả Cao Phạm Tuân – Trần Thị Thu Hiền cung cấp trong bài: “Bàn về vấn đề chuyển hóa tội danh từ “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” sang “Giết người””[1]
Nội dung vụ án sau đây là một ví dụ về việc khó khăn trong xác định tội danh về hành vi gây tai nạn giao thông nhưng vẫn không dừng xe mà cố ý điều khiển phương tiện giao thông bỏ chạy gây hậu quả chết người:
Khoảng 22 giờ 25 phút, ngày 04/2/2020, Hoàng Văn T trú tại thôn C, huyện H, tỉnh Q điều khiển xe ô tô, BKS 73A – 045.xx chạy trên Quốc lộ 1A theo hướng Bắc – Nam, khi đến đoạn km 598 + 100, Quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã Đ, huyện T, tỉnh Q. Phát hiện phía trước cách đầu xe ô tô khoảng 3m có ông T.H.P đang dắt xe đạp đi qua đường theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, do không xử lý kịp nên xe ô tô BKS 73A – 045. xx do Hoàng Văn T điều khiển đã đâm vào ông P, làm xe đạp bị văng về trước bên trái, ông P bị cuốn mắc kẹt dưới gầm xe ô tô. Sau khi gây tai nạn, biết ông P bị cuốn đang mắc dưới gầm xe ô tô nhưng T không dừng lại mà tiếp tục đánh lái sang phải kéo lê ông P chạy khoảng 100 mét, T thấy xe bị ì nặng, đuối máy khó đi, nên T đạp chân côn cài từ số 4 về số 3 rồi đạp chân ga tiếp tục cho xe chạy khoảng 1,5km đến đoạn đường vắng người qua lại. T cho xe dừng lại, xuống xe quan sát thấy 02 chân của nạn nhân tại vị trí gắn biển số xe ô tô phía trước, T tiếp tục điều khiển xe gài số lùi xe cho xe lùi khoảng 02 mét thì nạn nhân rơi xuống đường. Sau đó, T đánh tay lái sang trái rồi điều khiển xe bỏ chạy vào đường liên thôn mục đích tránh trạm thu phí rồi về nhà ở huyện T H. Hậu quả ông T.H.P bị chết.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 164/TT, ngày 19/11/2019 của Trung tâm giám định Y khoa – Pháp y tỉnh Q kết luận: Dấu hiệu chính qua giám định: Vùng mặt biến dạng, vùng đầu mặt bên phải có vết thương, kích thước 19 x 11cm, bờ mép vết thương nham nhỡ; Vỡ lún xương sọ vùng trán đỉnh thái dương phải, kích thước 9 x 7cm; Tổ chức não dập nát, phòi ra ngoài; Gãy sập xương gò má phải và xương hàm bên phải; Lồng ngực biến dạng, gãy cung trước các xương sườn từ số 2 đến số 9 ở cả hai bên, gãy xương bả vai phải. Gãy cung sau các xương sườn số 7, 8, 9, 10 bên phải. Nguyên nhân nạn nhân chết: Chấn thương sọ não, chấn thương ngực kín.
Sau khi vụ án được thụ lý đã có nhiều quan điểm về xác định tội danh và khung hình phạt đối với T như sau:
Quan điểm thứ nhất: T chỉ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định khoản 2 tại Điều 260 BLHS. Bởi vì khi điều khiển xe lưu thông trên đường T đã phát hiện ra nạn nhân nhưng do xe chạy tốc độ nhanh, xử lý kém nên T đã đâm vào nạn nhân gây tai nạn khiến ông T tử vong. Việc T điều khiển xe chạy tiếp 1,5km sau đó lùi lại để nạn nhân không bị giắt vào xe và điều khiển xe về nhà là do tâm lý hoảng loạn của T khi gây ra tai nạn nhằm trốn tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng, đây là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn”. T không thể chắc chắn rằng khi điều khiển xe chạy tiếp nạn nhân có bị rơi ra hay không và có thể bị phát hiện. Do đó việc điều khiển xe kéo lê nạn nhân của T không phải là lỗi cố ý nên T không thể phạm tội “Giết người” mà chỉ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại Điều 260 BLHS.
Quan điểm thứ hai: T phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung “Thực hiện tội phạm một cách man rợ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bởi vì khi gây tai nạn cho ông P, T biết ông P bị mắc kẹt trong gầm xe nhưng không dừng lại đế cứu nạn nhân mà tiếp tục điều khiển xe ô tô kéo lê nạn nhân chạy khoảng 1,5km để tìm nơi vắng người cài số lùi cho nạn nhân rơi xuống rồi bỏ mặc nhằm trốn tránh trách nhiệm. T hoàn toàn có thể nhận thức được việc tiếp tục cho xe chạy kéo lê nạn nhân theo sẽ càng gây nguy hiểm cho nạn nhân và khiến thân thể của nạn nhân bị đau đớn, không nguyên vẹn trước khi chết và sự việc này sẽ gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân nhưng T vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ gây hậu quả nạn nhân chết với rất nhiều thương tích. Do đó, T phải chịu TNHS về tội “Giết người” với tình tiết định khung “Thực hiện tội phạm một cách man rợ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Quan điểm thứ ba: T phạm tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì hành vi của T điều khiển xe ô tô gây tai nạn là do T thiếu quan sát, xử lý kém nên đã vô ý gây tai nạn giao thông cho ông P. Sau khi tai nạn xảy ra T biết nạn nhân đang bị mắc kẹt dưới gầm xe nhưng không dừng lại mà cố ý điều khiển xe ô tô tiếp tục chạy, kéo lê ông P khoảng 1,5km, gài số lùi để ông P rơi ra khỏi gầm xe rồi bỏ mặc cho hậu quả xảy ra làm ông P tử vong với nhiều thương tích. Do đó hành vi của T không phải phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, cũng không phải phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “Thực hiện tội phạm một cách man rợ” mà phạm tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS.
Quan điểm thứ ba cũng đồng thời là quan điểm của tác giả: Việc định tội danh này là phù hợp nhất, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo bởi vì: Nguyên nhân ban đầu xảy ra vụ án là do bị cáo thiếu chú ý quan sát trong khi điều khiển xe ô tô nên đã gây ra tai nạn, làm ông P bị cuốn mắc kẹt dưới gầm xe ô tô của bị cáo, đó là lỗi vô ý. Nếu sau khi gây tai nạn, bị cáo dừng xe lại để kiểm tra tình trạng nạn nhân nhằm có cách xử lý phù hợp thì bị cáo chỉ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định khoản 2 tại Điều 260 BLHS.
Tuy nhiên, sau khi gây tai nạn bị cáo biết nạn nhân đang mặc kẹt dưới gầm xe nhưng bị cáo vẫn cố ý điều khiển cho xe tiếp tục chạy, kéo lê nạn nhân một quãng đường dài khoảng 1,5km rồi gài số lùi để nạn nhân rơi ra khỏi xe, bỏ mặc nạn nhân làm cho ông P chết với nhiều thương tích trên cơ thể. Việc T điều khiển xe kéo lê nạn nhân rồi lùi xe đằn lên cơ thể nạn nhân làm cho nạn nhân chết nhằm trốn nghĩa vụ là hành vi cố ý. Do đó hành vi của T không phải phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” mà chuyển hóa thành tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS. Việc T cố ý điều khiển xe kéo lê nạn nhân và gài số lùi để nạn nhân rơi ra khỏi xe nhằm mục đích tránh bị phát hiện đã cấu thành tội giết người, do đó nếu xác định T phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “Thực hiện tội phạm một cách man rợ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 là chưa phù hợp với hành vi của bị cáo. Chính vì T cố ý điều khiển xe kéo lê nạn nhân và lùi xe lên nạn nhân nên hành vi của bị cáo T đã chuyển hóa thành tội “Giết người”. Vì vậy, T không phải chịu tình tiết định khung tặng tặng “Thực hiện tội phạm một cách man rợ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà chỉ phạm tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 với cấu thành cơ bản có mức hình phạt từ 07-15 năm tù là tương xứng với hành vi của bị cáo.
Trong cả án lệ số 30/2020 và ví dụ mà tôi dẫn chứng từ bài viết trên tạp chí kiểm sát, việc phạm tội giết người khi cố ý lái xe chèn lên bị hại sau khi xảy ra tai nạn giao thông, tại hiện trường không có người chứng kiến, không có camera ghi lịa hình ảnh xảy ra, không có hình ảnh hay video liên quan từ các khu vực gần đó, vì vậy để xác định tội của bị cáo cơ quan tố tụng dựa trên lời khai của người phạm tội, các biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y và sơ đồ hiện trường. Việc chuyển hóa tâm lý tội phạm, bước đầu từ vô ý gây tai nạn sang cố ý giết người với lỗi cố ý gián tiếp rất khó xác định bởi chỉ dựa vào lời khai của người phạm tội với tâm lý muốn trốn tránh trách nhiệm hình sự thì chưa đủ căn cứ và sự thống nhất trong việc giải quyết các vụ án có sự chuyển hóa từ tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” sang tội “Giết người”. Thiết nghĩ, trong thời gian tới, các cơ quan tố tụng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về các dấu hiệu chuyển hóa tội phạm, các tình tiết định khung tăng nặng khi áp dụng đối với tội phạm đã chuyển hóa nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được chặt chẽ, thống nhất, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật./.
[1] Tạp chí Kiểm Sát, Đăng ngày 24/03/2020, truy cập https://kiemsat.vn/ban-ve-van-de-chuyen-hoa-toi-danh-tu-vi-pham-quy-dinh-ve-tham-gia-giao-thong-duong-bo-sang-giet-nguoi-56944.html ngày 29/07/2022
* Để hiểu thêm vấn đề này, vui lòng liên hệ đến số hotline 0988873883 của Luật STC để được luật sư tư vấn miễn phí.
Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Hotline: 0988873883
Email: stclawfirm.vn@gmail.com
Website: https://stclawfirm.com/
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.