Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một quy định hoàn toàn mới được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (LHNGĐ) thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước đối với các cặp vợ chồng hiếm muộn hoặc không có con mà muốn sinh con. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề này nên bài viết dưới đây sẽ làm rõ cho bạn đọc những quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ.

1. Khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Khoản 22 Điều 3 LHNGĐ giải thích về việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.”

2. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Điều 95 LHNGĐ quy định điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”

Điều này đã được quy định chi tiết tại Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015, sửa đổi bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Nghị định 98/2016/NĐ-CP. Khi cặp vợ chồng sau một năm chung sống, có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai thì có thể được coi là vô sinh (khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP). Cặp vợ chồng vô sinh muốn được nhờ mang thai hộ phải gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này.

3. Hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Hồ sơ gồm các giấy tờ sau:

– Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định này;
– Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015;
– Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào; Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;
– Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
– Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 và đã từng sinh con;
– Bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này;
– Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ;
– Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;
– Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên;
– Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý;
– Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định tại Mẫu số 06 ban hành kèm theo Nghị định 10.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, cơ sở được cho phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do.

4. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Điều 96 LHNGĐ quy định thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

1. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ (sau đây gọi là bên nhờ mang thai hộ) và vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi là bên mang thai hộ) phải có các nội dung cơ bản sau đây:
a) Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này;
b) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này;
c) Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các
quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
d) Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.
2. Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng.
   Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý.
   Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này.

5. Quyền, nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Điều 97 LHNGĐ quy định quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

1. Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
2. Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
3. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng
chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
4. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
   Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.

Điều 98 LHNGĐ quy định quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

1. Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
2. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
3. Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ
thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.
4. Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan.
5. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.

Đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự 2015

Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc đại diện của người đại diện sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện trong phạm vi được đại diện trừ trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

1. Căn cứ xác lập quyền đại diện

Theo quy định của BLDS thì quyền đại diện được xác lập dựa vào những căn cứ sau đây:

+ Ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện

+ Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,

+ Theo điều lệ của pháp nhân

+ Theo quy định của pháp luật

– Nếu như giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. Trừ trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì quyền và nghĩa vụ sẽ không phát sinh với người được đại diện.

– Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện nhưng không được vượt quá phạm vi đại diện của mình và phải chịu trách nhiệm đối với phần giao dịch bị vượt quá đó đối với người giao dịch với mình.

2. Người đại diện theo pháp luật

2.1. Đại diện theo pháp luật của cá nhân

– Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

– Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

– Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại hai trường hợp trên.

– Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

2.2. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân

– Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

– Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

– Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo thời hạn đại diện và phạm vi đại diện của mình.

3. Người đại diện theo ủy quyền

– Do việc đại diện theo ủy quyền là việc mà cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác thực hiện các giao dịch dân sự nên trong trường hợp này pháp luật có ít ràng buộc đối với các quy định về chủ thể nào được quyền đại diện theo ủy quyền.

– Cần lưu ý một vài trường hợp sau khi xác định người đại diện theo ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự:

+ Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

+.Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

Trên đây là nội dung tư vấn về người đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 mà Công ty Luật TNHH STC gửi đến bạn đọc. Nếu có vấn đề gì Bạn đọc còn vướng mắc, băn khoăn hãy liên hệ với STC theo SĐT: 024 32000356 để được giải đáp. 

Các hàng thừa kế

Hàng thừa kế là diện những người có quan hệ gần gũi với người để lại di sản thừa kế và cùng được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.Luật STC sẽ trình bày cụ thể nội dung pháp lý về hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 (BLDS).

Những người trong diện thừa kế theo pháp luật được phân chia thành ba hàng, được quy định tại Điều 651 BLDS cụ thể: 

  • Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  • Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  • Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Hàng thừa kế thứ nhất: 

Quan hệ thừa kế giữa vợ với chồng: 

Vợ, chồng sẽ được thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau nếu vào thời điểm một bên chết mà quan hệ hôn nhân về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Đặc biệt cần lưu ý đối với các trường hợp cụ thể tại điều 655 bộ luật dân sự 2015, như sau: 

Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được hưởng thừa kế di sản. 

Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được hưởng di sản thừa kế.

Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đối với trường hợp một người có nhiều vợ, nhiều chồng trước ngày 13/1/1960 ở Miền Bắc, trước ngày 25/8/1977 ở Miền Nam, cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc (trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến 1975) lấy vợ, lấy chồng khác và kết hôn sau không bị Tòa án hủy bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này vợ, chồng được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của tất cả những người chồng (vợ) và ngược lại.

Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ đẻ với con đẻ và cha mẹ nuôi và con nuôi: 

Cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó. Do vậy, cha mẹ của người con trong giá thú hoặc ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của con mình và ngược lại.

Đối với quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ là hàng thừa kế thứ nhất của nhau nếu việc nhận nuôi được đăng ký theo quy định của pháp luật.

Hàng thừa kế thứ hai: 

Để xác định hàng thừa kế thứ hai cần làm rõ các khái niệm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại và anh chị em ruột.

Cụ thể ông nội, bà nội là người đã sinh ra cha của một người; ông ngoại, bà ngoại là người đã sinh ra mẹ của người đó. Anh, chị, em ruột là những người có cùng ít nhất cha hoặc mẹ. Quan hệ này chỉ được xác định trên quan hệ huyết thống.

Hàng thừa kế thứ ba: 

Cụ nội là người đã sinh ra ông nội hoặc bà nôi của một người. Tương tụ cụ ngoại là người đã sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó.

Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của một người là những anh, chị, em ruột của bố đẻ hoặc mẹ đẻ của người đó.

Từ việc xác định rõ các khái niệm trên việc xác định hàng thừa kế sẽ trở lên rõ ràng, đơn giản.

Nguyên tắc và trình tự hưởng di sản đối với các hàng thừa kế: 

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Nếu không có ai là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ ba thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước.

Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) thì “giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự“. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì theo nguyên tắc “hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Bài viết dưới đây phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý.

1. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch sân sự không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì vô hiệu, trừ trường hợp BLDS có quy định khác.

1.1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

1.2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

a) Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

b) Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

1.3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

a) Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản b dưới đây.

b) Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:

  • Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
  • Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
  • Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

1.4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

a) Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản b dưới đây.

b) Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

1.5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

1.6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

1.7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

  • Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
  • Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

1.8. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần

Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.

2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

  • Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
  • Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
  • Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
  • Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
  • Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

3. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

a) Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các mục từ 1.3 đến 1.7 trên là 02 năm, kể từ ngày:

  • Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
  • Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
  • Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
  • Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
  • Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

b) Hết thời hiệu quy định tại điểm a trên mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

c) Đối với giao dịch dân sự quy định tại mục 1.1 và 1.2 đã phân tích trên thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

4. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

a) Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

b) Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

c) Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

d) Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

Với tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp và độ tuổi phạm tội ngày càng trẻ hóa, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (BLHS) đã quy định đầy đủ, cụ thể và chi tiết về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội của mình. 

Theo đó, BLHS quy định tại Điều 12 như sau:

Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình s

1. Người từ đủ 16 tui trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.

Căn cứ vào quy định pháp luật trên, có thể phân chia độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

  • Dưới 14 tuổi: người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên trong một số trường hợp người phạm tội có thể bị đưa vào một số trường giáo dưỡng để giáo dục.
    Người dưới 14 tuổi được coi là người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc chưa có năng lực trách nhiệm hình sự và không phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì xét về mặt sinh lý trí tuệ của đối tượng này chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động. Tuy nhiên trong một số trường hợp người phạm tội sẽ phải đưa vào trường giáo dưỡng để giáo dục.
  • Từ 14 đến dưới 16 tuổi: Với độ tuổi này người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định trong BLHS sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự được liệt kê cụ thể tại khoản 2 Điều 12 BLHS. Các tội này đều là những tội có tính chất rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
  • Trên 16 tuổi: người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về mọi tội. Mặc dù phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội nhưng pháp luật cũng có quy định riêng về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chưa đủ 18 tuổi nhằm tạo điều kiện cho những người này có cơ hội để sửa sai.

Trên đây là quy định của BLHS hiện hành về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự

Quy định về thẩm quyền điều tra, thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự là một trong những quy định rất quan trọng, xác định thẩm quyền và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan xét xử của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS).

Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 163 BLTTHS 2015 như sau: 

Điều 163. Thẩm quyền điều tra

1. Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.

3. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

5. Việc phân cấp thẩm quyền điều tra như sau:

a) Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực;

b) Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra;

Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra;

c) Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng điều tra vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra”.

Theo đó, để lựa chọn đúng cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự cần phải căn cứ vào ba tiêu chí: thẩm quyền theo tổ chức hệ thống cơ quan điều tra, và thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ và thẩm quyền điều tra theo cấp bậc của cơ quan điều tra.

– Dựa theo cách xác định thẩm quyền điều tra vụ án hình sự theo tổ chức hệ thống cơ quan điều tra: Cơ quan điều tra của công an nhân dân có thẩm quyền điều tra tất cả các loại tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra trong quân đội và cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan điều tra của viện kiểm sát quân sự trung ương. Cơ quan điều tra trong quân đội điều tra những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự. Cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra những tội phạm được quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

– Dựa theo cách xác định thẩm quyền điều tra vụ án hình sự theo lãnh thổ: Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra là cơ quan điều tra nơi tội phạm xảy ra. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

– Dựa theo cách phân chia thẩm quyền điều tra vụ án hình sự theo cấp điều tra: Cơ quan điều tra cấp nào thì điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tương đương. Ngoài ra, các cơ quan đều tra cấp trên có thể điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra cấp dưới nếu như nhận thấy cần thiết và pháp luật có quy định. Đặc biệt, cơ quan điều tra Bộ Công an và Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng điều tra những vụ án hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.

Một cơ quan điều tra chỉ có thể được lựa chọn đúng nếu như thỏa mãn đầy đủ cả ba tiêu chí trên.

Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật

Trong một số vụ án, khi tội phạm được thực hiện phát sinh cùng lúc quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật dân sự. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động tố tụng hình sự, bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời, toàn diện, bảo đảm quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng, bài viết dưới đây phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.

1.Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

Đây là nguyên tắc mới được bổ sung vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) và là nguyên tắc cơ bản trong pháp luật hình sự. Theo đó, Điều 30 BLTTHS quy định như sau: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”.

Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

                       

2.Thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm

BLTTHS không có riêng điều luật quy định về thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Pháp luật không quy định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được thực hiện ở giai đoạn nào trong quá trình tố tụng mà chỉ quy định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành “cùng” với việc giải quyết vụ án hình sự.

Như vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng cùng lúc giải quyết các vấn đề hình sự và các vấn đề dân sự. Giai đoạn xét xử sơ thẩm thì cần xác định chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bởi vì xét xử là chức năng đặc thù của Tòa án. Tòa án sẽ xét xử toàn bộ nội dung vụ án.

Trước khi ra bản án, Hội đồng xét xử phải xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của chủ thể bị thiệt hại (bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan), xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể phải có nghĩa vụ bồi thường (bị cáo, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan).

3. Cơ sở phát sinh việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự phải được thực hiện với tư cách là quyền yêu cầu của người tham gia tố tụng, chỉ phát sinh khi có yêu cầu từ phía bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và viện kiểm sát. Trên thực tế xét xử vụ án hình sự ở giai đoạn sơ thẩm, Tòa án thông thường sẽ giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự mặc dù người gia tố tụng không có yêu cầu giải quyết.

Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Do vậy, thời hạn để bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và viện kiểm sát yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là 03 (ba) năm.

4. Trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

BLTTHS không quy định cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Do vấn đề dân sự được giải quyết đồng thời với vụ án hình sự, vì vậy, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ tuân theo trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự.

Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có điểm giống và khác so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự:

  • Thứ nhất, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Người có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại được sử dụng kết quả đó của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà không cần phải chứng minh mức độ thiệt hại hoặc giá trị tài sản.
  • Thứ hai, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự không có thủ tục hòa giải. BLTTHS không quy định về thủ tục hòa giải tại Tòa án để các bên hòa giải, thương lượng với nhau. Trường hợp họ tự thỏa thuận được với nhau và nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì Tòa án cũng không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận này. 

Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cho phép áp dụng pháp luật dân sự và tố tụng dân sự để điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại, bồi hoàn.

Trên đây là bài viết mang tính tham khảo do Luật STC biên soạn. Nếu cần tư vấn thêm, quý khách hàng vui lòng gọi qua hotline: 024 32000536 để được tư vấn thêm.

Các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự

Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế Tố tụng hình sự do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để tiếp tục phạm tội mới hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm việc thi hành án.

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS) quy định chung tại Điều 109 về các biện pháp ngăn chặn, theo đó có 9 biện pháp ngăn chặn sau: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người (đối với người phạm tội quả tang); Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Tạm giữ; Tạm giam; Bảo lĩnh; Đặt tiền để bảo đảm; Đặt tiền để bảo đảm; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Tạm hoãn xuất cảnh.

1. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

+ Hoàn cảnh áp dụng:

  • Khi có đủ căn cứ để xác định một người đang chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
  • Người đó là người cùng thực hiện tội phạm hoặc là bị hại hoặc có mặt tại nơi xảy ra hành vi tội phạm, chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
  • Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Người có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp bao gồm:

  • Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
  • Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
  • Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

2. Bắt người (đối với người phạm tội quả tang)

+ Hoàn cảnh áp dụng: Phát hiện thấy một người đang thực hiện tội phạm, hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Bất kì người nào cũng có thể bắt và giải ngay tới cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. 

3. Bắt người (đối với người đang bị truy nã)

+ Hoàn cảnh áp dụng:

Phát hiện người đang bị truy nã

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Bất kì người nào cũng có thể bắt và giải ngay tới cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.

4. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Những người có quyền phát lệnh:

  • Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
  • Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
  • Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

5. Tạm giữ

+ Hoàn cảnh áp dụng:

Áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Những người có quyền ra lệnh giữ người cũng có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.

6. Tạm giam

+ Hoàn cảnh áp dụng:

Áp dụng với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc cũng có thể áp dụng khi là tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

  • Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
  • Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
  • Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
  • Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
  • Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
  • Hoặc cũng có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Những người có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam cũng có thẩm quyền ra lệnh, quyết định tạm giam.

7. Bảo lĩnh

+ Hoàn cảnh áp dụng: Được áp dụng thay cho biện pháp tạm giam khi căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và của thân nhân bị can, bị cáo.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.

8. Đặt tiền để bảo đảm

+ Hoàn cảnh áp dụng: Cũng là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam, theo đó căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo để xem xét ra quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm

9. Cấm đi khỏi nơi cư trú

+ Hoàn cảnh áp dụng:

Áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.

 + Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Những người có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam và thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

10. Tạm hoãn xuất cảnh

+ Hoàn cảnh áp dụng:

Khi có căn cứ cho rằng người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; bị can, bị cáo có dấu hiệu bỏ trốn.

+ Cá nhân/tổ chức áp dụng:

Những người có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam và thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định tạm hoãn xuất cảnh.

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Bài viết dưới đây của Luật STC phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này.

Về căn cứ bắt người:

Mặc dù điều luật không quy định cụ thể trường hợp nào thì được bắt bị can, bị cáo, để tạm giam nhưng có thể hiểu rằng chỉ có thể bắt trong trường hợp này khi có hai điều kiện. Thứ nhất, người bị bắt phải là bị can hoặc là bị cáo; thứ hai, người bị bắt là để tạm giam, cần thiết phải tạm giam để đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử.

Thẩm quyền bắt người:

Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm soát; Chánh án, Phó chánh án và Hội đồng xét xử. Người đứng đầu các Cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra không có thẩm quyền bắt bị can để tạm giam.

Khi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án (Chánh án, phó Chánh án) thực hiện thẩm quyền thì phải ra lệnh bắt còn Hội đồng xét xử phải ra quyết định bắt. Lệnh bắt của Cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

– Thủ tục bắt người:

Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, quyết định; giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và lập biên bản về việc bắt; giao lệnh cho người, quyết định cho người bị bắt. Việc thi hành các lệnh bắt nói chung và lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam nói riêng do cơ quan Công an thực hiện trong các giai đoạn tố tụng hình sự.

Nếu bắt người tại nơi cư trú hoặc nơi khác phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Người chứng kiến phải đảm bảo theo đúng quy định về người chứng kiến được quy định tại Điều 67 BLTTHS năm 2015. Nếu bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Người đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn phải đảm bảo đúng quy định về đại diện theo quy định của Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân hay chỉ cần là công chức, viên chức thuộc chính quyền xã, phường thị trấn.

Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội bắt quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

“Điều 113. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

1. Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;

c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

2. Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.

Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.

Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.

3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã”.

Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã

Bắt người phạm tội quả tang là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS), là việc bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc hạn chế hậu quả của tội phạm xảy ra trên thực tế.

1.Quy định về bắt người phạm tội quả tang theo BLTTHS

Bắt người phạm tội quả tang được quy định tại Điều 111 BLTTHS như sau:

1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.

3. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”.

Theo quy định này thì có 03 trường hợp được bắt người phạm tội quả tang sau:

– Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện: 

Việc đang thực hiện tội phạm là trường hợp phạm tội quả tang thường gặp trong thực tế. Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện.

Trong trường hợp hành vi đang thực hiện một tội phạm có cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra vẫn coi là hành vi đang thực hiện tội phạm.

Đối với những tội phạm mà hành vi phạm tội được thực hiện trong một khoảng thời gian dài, không bị gián đoạn như tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, tội tràng trữ trái phép chất nổ, chất độc, chất cháy, chất phóng xạ… thì trong suốt thời gian đó bị coi là đang thực hiện tội phạm. Vì vậy, thời điểm nào tội phạm bị phát giác cũng là phạm tội quả tang.

 Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện:

Khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện là trường hợp kẻ phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này phải có chứng cứ chứng minh là kẻ đó vừa gây tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra tức thời sau khi tội phạm được thực hiện. Thông thường, các vật chứng (còn gọi là tang vật) mà người phạm tội chưa kịp cất giấu, tẩu tán là những bằng chứng khiến kẻ phạm tội không thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình vừa thực hiện xong. Trong các trường hợp không có vật chứng, sự có mặt của những người làm chứng cũng cho phép được bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này.

 Đang bị đuổi bắt:

Trong trường hợp phạm tội quả tang này thì người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong hoặc đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt.

Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội. Nếu như  việc đuổi bắt bị gián đoạn về thời gian so với hành vi chạy trốn thì không được bắt quả tang mà có thể bắt theo trường hợp khẩn cấp.

2. Quy định về bắt người đang bị truy nã

Bắt người đang bị truy nã được quy định tại Điều 112 BLTTHS:

1. Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.

3. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”.

– Đối tượng truy nã:

Đối tượng bị bắt trong trường hợp này là người bị truy nã. Người bị truy nã là bắt người trước đây đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam. Họ là bị can, bị cáo tại ngoại nhưng trốn tránh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đối với họ cơ quan điều tra tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định truy nã. Và bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã đến Cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.

– Về thẩm quyền bắt người đang bị truy nã:

BLTTHS quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người đang bị truy nã. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

– Nguyên tắc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã:

  • Nguyên tắc truy nã đúng người, Cơ quan, chủ thể có thẩm quyền phải thông báo đúng hành vi phạm tội của người lẩn trốn;
  • Nguyên tắc khi bắt người đang bị truy nã phải thận trọng, chính xác, linh hoạt và an toàn, nếu phát hiện sai phải sửa ngay;
  • Nguyên tắc quyết định truy nã phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh;
  • Nguyên tắc khi bắt được đối tượng hoặc đối tượng đã chết, đã đầu thú, đã được thanh loại, cơ quan đó phải ra quyết định đình nã và gửi tới những nơi đã gửi quyết định truy nã;
  • Nguyên tắc nghiêm cấm dùng quyết định truy nã thay lệnh bắt người trong những trường hợp khác;
  • Nguyên tắc sử dụng tổng hợp sức mạnh các lực lượng, các tổ chức, các ngành và công dân trong công tác truy nã tội phạm.

– Đặc điểm của biện pháp bắt người đang bị truy nã: Mặc dù mang những đặc điểm chung của hoạt động điều tra tội phạm nhưng hoạt động truy nã tội phạm còn mang những đặc điểm riêng là:

  • Biện pháp bắt người đang bị truy nã được tiến hành công khai, thông báo cho mọi công dân biết nhưng trong tổ chức công tác truy nã phải sử dụng các hoạt động nghiệp vụ bí mật;
  • Chỉ tiến hành bắt người đang bị truy nã sau khi đã xác định hành vi phạm tội và những yếu tố cơ bản về đặc điểm, nhân thân đối tượng;
  • Bắt người đang bị truy nã là công việc nguy hiểm, phức tạp đòi hỏi tính tổ chức kỷ luật cao;
  • Khi phát hiện chính xác đối tượng có quyết định, lệnh truy nã mọi công dân đều có quyền bắt giữ.

Trên đây là những quy định của pháp luật hiện hành về bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã. Nếu cần tư vấn thêm, quý khách vui lòng gọi điện đến hotline: 02432000536 để được hướng dẫn chi tiết.

0988873883