Di sản thừa kế chỉ có thể được phân chia hợp pháp nếu những người thừa kế thực hiện đúng các hình thức phân chia được Bộ luật Dân sự 2015 quy định như Luật STC liệt kê dưới đây:
Nội dung việc phân chia di sản theo di chúc được quy định tại Điều 659 Bộ Luật Dân sự 2015 tuân theo những quy tắc sau:
-Tuân theo ý chí của người để lại di chúc. Nếu di chúc không phân chia cụ thể cho từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những đối tượng được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp thỏa thuận khác.
-Trường hợp phân chia di sản theo hiện vật:
+Được nhận hiện vật kèm hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật.
+Chịu phần giá trị hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản
+ Nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì có quyền yêu cầu bồi thường.
-Trường hợp di chúc chia theo tỷ lệ đối với tổng tài sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản thừa kế.
2.Phân chia di sản theo pháp luật
Tại Điều 660 Bộ luật dân sự 2015 quy định về điều này:
“1. Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
2.Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.”
Liên hệ Luật STC để được tư vấn miễn phí về phân chia di sản thừa kế
3.Hạn chế phân chia khi:
-Hạn chế theo thời gian: Di sản chỉ được chia sau 1 thời gian nhất định khi:
+Tuân theo ý chí của người lập di chúc
+Theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế
-Trường hợp chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định.
+Lần 1: không quá 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế
+Lần 2: Hết thời gian ở lần 1 nếu chứng minh được việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của họ thì có quyền yêu cầu Tòa an gia hạn thêm nhưng không quá 03 năm.
Chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế
Sau khi đã chia thừa kế, việc xuất hiện hoặc giảm bớt số lượng người thừa kế thì cách thức phân được quy định tại Điều 662 Bộ luật dân sự 2015 nội dung như sau:
-Xuất hiện thêm người thừa kế mới: không chia lại di sản nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
-Người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế: người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương phần giá trị di sản được hưởng ở thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế còn lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Vậy đối với pháp luật Việt Nam hiện hành, những tài sản nào khi nhận mà người thừa kế cần quan tâm đến việc đóng thuế. Sau đây, Luật STC sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu.
1.Các khoản thu nhập từ thừa kế phải nộp thuế thu nhập cá nhân:
Theo khoản 9 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC thu nhập từ thừa kế phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) gồm:
– Nhận thừa kế là chứng khoán bao gồm: Cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác; cổ phần của cá nhân trong công ty cổ phần theo quy định.
– Nhận thừa kế là phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh.
– Nhận thừa kế là bất động sản gồm: Quyền sử dụng đất; quyền sở hữu nhà…trừ thu nhập từ thừa kế là bất động sản theo hướng dẫn tại điểm d, khoản 1, Điều 3 Thông tư này.
– Nhận thừa kế là các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng với cơ quan quản lý Nhà nước như: Ô tô; xe gắn máy, xe mô tô…
Luật STC tư vấn miễn phí về các vấn đề liên quan đến thừa kế
Các trường hợp được miễn thuế liên quan đến thừa kế.
Điểm d khoản 1 Điều 3 tại Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định về các trường hợp được miễn thuế:
“Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản (bao gồm cả nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản) giữa: vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ….”
Như vậy, khi nhận được thừa kế là bất động sản, tài sản khác phải đăng ký, chứng khoán, là phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân, trừ trường hợp là bất động sản từ người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định.
Các đối tượng chịu thuế và được miễn thuế hiện nay được pháp luật quy định và xây dựng theo phương thức liệt kê, vì vậy khi tra cứu cần theo sát các đối tượng theo quy đinh tại thông tư Thông tư 111/2013/TT-BTC.
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Việc khai nhận di sản thừa kế cần được thực hiện trong thời hạn và thủ tục theo quy định mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng di sản thừa kế. Vậy khai nhận di sản và thủ tục khai nhận được thực hiện ra sao. Luật STC sẽ giải đáp để bạn đọc nắm rõ.
1.Khai nhận di sản thừa kế là gì?
Khai nhận di sản thừa kế là thủ tục nhằm xác lập quyền tài sản với di sản do người chết để lại cho người được hưởng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, khai nhận theo quy định tại Điều 58 Luật Công chứng chỉ xảy ra trong 02 trường hợp:
– Người duy nhất được hưởng di sản theo pháp luật;
– Những người cùng được hưởng di sản theo pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó.
Do đó, so với việc những người cùng hàng thừa kế nêu tại Điều 651 BLDS 2015 phân chia cụ thể phần di sản của từng người thì khai nhận thừa kế lại thống nhất không chia di sản đó hoặc khi người thừa kế chỉ có duy nhất một người.
2. Nơi tiến hành khai nhận.
Nơi tiến hành thủ tục khai nhận được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 18 nghị định 29/2015/NĐ-CP với nội dung như sau:
“Điều 18. Niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản
Việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản phải được niêm yết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Việc niêm yết do tổ chức hành nghề công chứng thực hiện tại trụ sở của Ủy ban nhân cấp xã nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản; trường hợp không xác định được nơi thường trú cuối cùng thì niêm yết tại nơi tạm trú có thời hạn cuối cùng của người đó.
Trường hợp di sản gồm cả bất động sản và động sản hoặc di sản chỉ gồm có bất động sản thì việc niêm yết được thực hiện theo quy định tại Khoản này và tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản.
Trường hợp di sản chỉ gồm có động sản, nếu trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng và nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn cuối cùng của người để lại di sản không ở cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì tổ chức hành nghề công chứng có thể đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn cuối cùng của người để lại di sản thực hiện việc niêm yết.”
=> Tổ chức hành nghề công chứng thực hiện niêm yết tại UBND cấp xã tại nơi thường trú, tạm trú cuối cùng/ nơi có bất động sản.
Liên hệ Luật STC để được tư vấn miễn phí về thủ tục khai nhận di sản thừa kế
Hồ sơ khai nhận di sản thừa kế
Hồ sơ thủ tục được khai nhận được hướng dẫn tại Điều 58 Luật công chứng 2014 và Điều 18 nghị định 29/2015/NĐ-CP
-Hồ sơ gồm:
+ Phiếu yêu cầu công chứng;
+ Bản sao di chúc nếu thừa kế theo di chúc hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng nếu chia thừa kế theo pháp luật;
+ Giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết; Giấy đăng ký kết hôn của người để lại di sản, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (nếu có)…
+ Dự thảo Văn bản khai nhận di sản thừa kế (nếu có);
+ Các giấy tờ nhân thân: Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân hoặc hộ chiếu hoặc sổ hộ khẩu, sổ tạm trú… của người khai nhận di sản thừa kế;
+ Các giấy tờ về tài sản: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đăng ký xe ô tô… Các giấy tờ khác về tình trạng tài sản chung/riêng như bản án ly hôn, văn bản tặng cho tài sản, thỏa thuận tài sản chung/riêng…
+ Hợp đồng ủy quyền (nếu có trong trường hợp nhiều người được nhận thừa kế nhưng không chia di sản)…
-Thẩm quyền: Tổ chức hành nghề công chứng thực hiện thủ tục niêm yết tại UBND cấp xã nơi thường trú, tạm trú cuối cùng/ nơi có bất động sản.
-Thời gian: 15 ngày kể từ ngày niêm yết
-Ký văn bản khai nhận di sản thừa kế: sau thời hạn niêm yết văn bản khai nhận di sản nếu không có khiếu nại, tố cáo thì tổ chức hành nghề công chứng tiến hành giải quyết hồ sơ, ký chứng nhận và trả kết quả.
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Mối quan hệ huyết thống hay hôn nhân là việc xác nhận tính họ hàng, dòng họ đặc thù trong văn hóa, xã hội Việt Nam hiện nay. Và hầu hết việc chia thừa kế trong thực tế mặc nhiên được người dân hiểu là chia tài sản cho người thân trong gia đình.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành việc chia thừa kế không còn bị giới hạn trong quan hệ huyết thống và hôn nhân mà đã mở rộng. Qua bài viết này, Luật STC giới thiệu các trường hợp đó.
1.Giới hạn trong quyền để lại tài sản thừa kế
Cá nhân có toàn quyền trong việc để lại tài sản của mình cho người thừa kế thông qua việc để lại di chúc. Căn cứ Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”
Tại Điều 609 ta thấy được 2 yếu tố:
-Cá nhân có thể lập di chúc để định đoạt tài sản của mình=> Không bị giới hạn về đối tượng có thể nhận di sản.
-Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc=> Các đối tượng như doanh nghiệp, tổ chức….cũng là đối tượng không cùng huyết thống,hôn nhân đầu tiên được phép nhận thừa kế mà chúng ta nhận thấy.
Chú ý: Vẫn tồn tại các đối tượng có quyền nhận di sản không phụ thuộc vào di chúc.
2.Con nuôi, cha mẹ nuôi có được hưởng thừa kế không?
Mối quan hệ cha me nuôi, con nuôi hợp pháp là sau khi đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền và xác lập quan hệ cha, mẹ và con.
Theo quy định tại Điều 78 Luật hôn nhân và gia đình 2014, cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền và nghĩa vụ giống như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. Do đó cha mẹ nuôi và con nuôi cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 BLDS 2015:
“Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Đồng thời tại Điều 653 BLDS 2015:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.”
Như vậy, con nuôi, cha mẹ nuôi có quyền bình đẳng hưởng thừa kế và được pháp luật bảo vệ. => Quan hệ nuôi dưỡng
Liên hệ Luật STC để được tư vấn các trường hợp về thừa kế theo Di chúc
3.Con riêng có được hưởng thừa kế của cha kế, mẹ kế?
Điều 654 BLDS 2015 quy định:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
Điều 654 có dẫn chiếu đến Điều 653, từ đó ta có thể hiểu mối quan hệ giữa con riêng và cha mẹ kế hoàn toàn được pháp luật bảo hộ trên phương diện quyền thừa kế tương tự cha, mẹ con ruột. => Quan hệ nuôi dưỡng
Tổng kết, như vậy ta có thể thấy pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay không giới hạn về đối tượng thừa kế theo di chúc, điều đó cho phép “người dưng” cũng như những mối quan hệ không cùng huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng vẫn có quyền thừa kế theo di chúc. Yếu tố không giới hạn này chính là tiền đề quyết định cho mọi đối tượng được hưởng di sản từ người đã mất thông qua di chúc.
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đưa tiền cho người đang ở Việt Nam nhờ đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sau đó người được nhờ đứng tên ở Việt Nam đã quản lý rồi chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó với giá trị cao hơn thì Tòa án buộc người được nhờ đứng tên trả lại khoản tiền gốc cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, khoản tiền còn lại không bị tịch thu mà được coi là lợi nhuận chung và phải chia cho người được nhờ đứng tên ở Việt Nam tương ứng với công sức của họ trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất; nếu không xác định được chính xác công sức thì khoản lợi nhuận đó được chia đều cho hai bên.
I.Quy định pháp luật
1.1. Khi giải quyết vụ án
Không có quy định của pháp luật cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở tại Việt Nam.
Điều 50 Luật Đất đai năm 1987 (hết hiệu lực ngày 15-10-1993)
Việc giao đất cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức liên doanh, hợp tác của Việt Nam và nước ngoài để sử dụng do Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định.
Điều 9 Nghị định số 30-HĐBT ngày 23-3-1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật Đất đai
Việc giao đất cho người nước ngoài nói tại điều 50 Luật Đất đai này quy định như sau:
Giao đất để xây dựng trụ sở cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự và các cơ quan đại diện khác của nước ngoài được thực hiện trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế hữu quan với hình thức giao đất có thời hạn.
Giao đất để sản xuất kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài:
a) Xí nghiệp có vốn 100% của nước ngoài được thuê đất theo luận chứng kinh tế – kỹ thuật đã được Ủy ban Nhà nước về hợp tác đầu tư phê chuẩn,
b) Đối với xí nghiệp liên doanh thì giá trị khu đất được tinh vào phần vốn góp của phía Việt Nam.
Điều 80 Luật Đất đai năm 1993
Chính phủ quyết định việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế (gọi chung là người nước ngoài), người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất.
Điều 15. Hợp đồng vô hiệu Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 (áp dụng vào thời điểm giao dịch)
Hợp đồng vô hiệu toàn bộ trong các trường hợp sau đây:
a) Nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trải với đạo đức xã hội;
b) Một hoặc các bên không có quyền giao kết hợp đồng […]
Điều 16. Xử lý hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu không có giá trị từ thời điểm giao kết.
Nếu hợp đồng chưa được thực hiện hoặc đã được thực hiện một phần, thì các bên không được tiếp tục thực hiện.
Trong trường hợp hợp đồng đã được thực hiện một phần hoặc toàn bộ, thì các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền.
Bên có lỗi trong việc giao kết hợp đồng vô hiệu mà gây ra thiệt hại cho bên kia, thì phải bồi thường, trừ trường hợp bên bị thiệt hại biết rõ lý do làm cho hợp đồng vô hiệu mà vẫn giao kết.
Khoản thu nhập không hợp pháp từ việc thực hiện hợp đồng vô hiệu phải bị tịch thu.
Bộ luật Dân sự năm 1995
Điều 137. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
Giao dịch dân sự có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì vô hiệu; tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu, sung quỹ nhà nước. […]
Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường
Điều 235. Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức
Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó.
1.2. Tại thời điểm công bố án lệ
Án lệ số 02 được ban hành vào ngày 06-4-2016. Tại thời điểm đó. pháp luật Việt Nam đã cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Cụ thể:
Luật Nhà ở năm 2014
Điều 7. Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam
[…]
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài […]
Luật Đất đai năm 2013
Điều 169. Nhận quyền sử dụng đất
Người nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:
đ) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở được nhận chuyển quyền sử dụng đất ở thông qua hình thức mua, thuê mua, nhận thừa kế, nhận tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở hoặc được nhận quyền sử dụng đất ở trong các dự án phát triển nhà ở; […]
Liên hệ Luật STC để được tư vấn về giao dịch dân sự
II.Phân tích và bình luận
Căn cứ các quy định pháp luật áp dụng vào thời điểm người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhờ người ở Việt Nam đứng tên “mua” đất, giao dịch đó bị cấm vì pháp luật tại thời điểm đó không cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng và quyền sử dụng đất nói chung ở Việt Nam. Giao dịch đó được thực hiện vào thời điểm Pháp lệnh Hợp đồng dân sự có hiệu lực và bị điều chính bởi Pháp lệnh đó – Khoản 5 Điều 1.
Pháp lệnh quy định: “Khoản thu nhập không hợp pháp từ việc thực hiện hợp đồng vô hiệu phải bị tịch thu”. Do đó, các giao dịch tương tự đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu và khoản lợi nhuận thu được bị tịch thu.
Quy định trên vẫn tiếp tục được thể hiện tại BLDS 1995 về xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, đến BLDS 2005 đã không quy định “cứng nhắc” như trên mà chỉ quy định chung tại Điều 137 rằng hoa lợi, lợi tức có thể bị tịch thu “theo quy định của pháp luật”.
Theo nguyên tắc về áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án thì lẽ ra trong trường hợp này phải áp dụng pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao dịch dân sự được xác lập và thực hiện. Tuy nhiên, HĐTP TANDTC đã chấp nhận nhận định được nêu trong Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (“Đối với chênh lệch giá trị đất, thời điểm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là thời điểm thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005, không có quy định buộc phải tịch thu sung công quỹ nên khoản chênh lệch này bà Thảnh và ông Tám củng được hưởng”) để cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm tịch thu sung công quỹ nhà nước khoản lợi nhuận là “không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005″.
Có lẽ, HĐTP TANDTC đã tính đến sự thay đổi của pháp luật theo hưởng có lợi hơn đối với các đương sự để “áp dụng hồi tố”. Trong vụ việc này có hai quy định có lợi hơn đối với các đương sự. Thứ nhất, pháp luật đã cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà, sử dụng đất ở Việt Nam trong một số trường hợp. Thứ hai, việc tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được từ việc thực hiện giao dịch vô hiệu không phải là trong mọi trường hợp mà chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định cụ thể.
Án lệ không nhận định rõ là giao dịch trong vụ án này có bị coi là vô hiệu hay không. Tòa án cấp phúc thẩm chắc đã quyết định giao dịch này là vô hiệu nên mới quyết định tịch thu khoản lợi nhuận này. Căn cứ vào việc án lệ không có nhận định về vấn đề này, đồng thời án lệ cùng dẫn chiếu đến Điều 137 BLDS 2005 (trong phần về “Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ”), chúng tôi cho rằng HĐTP TANDTC có lẽ cũng coi giao dịch này là vô hiệu và án lệ này chỉ giới hạn trong việc đưa ra đường lối xử lý hậu quả của giao dịch vô hiệu liên quan đến hoa lợi, lợi tức thu được. Như vậy, án lệ số 02 đã không dựa trên các quy định của pháp luật áp dụng vào thời điểm giao dịch mà áp dụng các quy định của pháp luật vào thời điểm giải quyết vụ án theo hướng có lợi hơn cho các đương sự.
Án lệ số 02 không thể được khái quát hóa theo hướng công nhận việc “đầu tư chui” của người không được phép đầu tư, kinh doanh, bao gồm người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài…, thông qua người khác được phép đầu tư, kinh doanh.
Đối với những vụ án với tình tiết tương tự như việc “nhờ” đứng tên “mua” đất, bất động sản khác được thực hiện trong những năm gần đây khi mà pháp luật đã có quy định rõ ràng về những trường hợp nào người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sử dụng đất, sở hữu bất động sản khác ở Việt Nam thì theo chúng tôi cần phải căn cứ theo các quy định đó để giải quyết.
Việc áp dụng Án lệ số 02 nếu không tính đến các yếu tố mang tính “xử lý tình huống” như chúng tôi phân tích ở trên rất có thể sẽ dẫn đến việc các bên vi phạm pháp luật về quản lý đất đai (không được phép mua bán, đầu tư nhưng thông qua người khác để mua bán, đầu tư) vì họ cho rằng cuối cùng nếu tranh chấp có xảy ra thì Tòa án cũng sẽ bảo vệ họ (được phép lấy lại vốn đầu tư, được chia lợi nhuận đầu tư). Ngoài ra, nếu không áp dụng án lệ một cách rất thận trọng thì có thể dẫn đến trường hợp rất nghiêm trọng là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài “bỏ tiền” mua bán nhà, đất với số lượng lớn và ở những vị trí nhạy cảm thông qua những người ở Việt Nam có quyền mua bán, trong khi chế độ sử dụng đất đai được quản lý chặt chẽ nhất là đối với người nước ngoài.
Vì vậy, theo chúng tôi, kết luận pháp lý từ Án lệ số 02 với nội dung như chúng tôi trình bày ở trên chỉ nên áp dụng trong những vụ án có các tình tiết cơ bản sau đây:
(i) Việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài “nhờ đứng tên” xảy ra trong thời kỳ pháp luật đất đai chưa cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sử dụng đất, bất động sản khác tại Việt Nam;
(ii) Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán bất động sản khác giữa “người dùng tên họ” và bên chuyển nhượng là hợp pháp,
(iii) Có lợi nhuận từ việc “đầu tư” nêu trên.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng việc áp dụng Án lệ số 02 rất thận trọng nếu như có sự thay đổi so với các tình tiết nêu trên. Ví dụ, trong các vụ án có một trong các trường hợp sau đây: người “nhờ” là người nước ngoài giao dịch mua bán được thực hiện trong khi pháp luật đã quy định rõ các trường hợp người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bất động sản khác tại Việt Nam, theo chúng tôi Án lệ số 02 không được áp dụng.
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
a) Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; […]
Điều 23. Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm
Ngoài các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự, hợp đồng bảo hiểm còn chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
[…]
Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Điều 35. Đóng phí bảo hiểm nhân thọ
Bên mua bảo hiểm có thể đóng phí bảo hiểm một lần hoặc nhiều lần theo thời hạn, phương thức thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Trong trường hợp phí bảo hiểm được đóng nhiều lần và bên mua bảo hiểm đã đóng một hoặc một số lần phí bảo hiểm nhưng không thể đóng được các khoản phí bảo hiểm tiếp theo thì sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày gia hạn đóng phí, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dưới hai năm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Bộ luật Dân sự năm 1995
Điều 308. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự
Người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với người có quyền.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng, thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Người có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự, nếu nghĩa vụ dân sự không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của người có quyền.
Điều 309. Lỗi trong trách nhiệm dân sự
Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. […]
Các quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 nếu trên được giữ nguyên tại Luật Kinh doanh bảo hiểm được sửa đổi, bổ sung 2010.
Bộ luật Dân sự năm 2015
Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.
Điều 364. Lỗi trong trách nhiệm dân sự
Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý.
Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Liên hệ Luật STC để được luật sư tư vấn miễn phí về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
Phân tích và bình luận
Trường hợp hợp đồng bảo hiểm quy định thu phí bảo hiểm tại nhà của bên mua bảo hiểm, mà việc không đóng phí bảo hiểm đúng hạn là do nhân viên doanh nghiệp bảo hiểm không đến nhà bên mua bảo hiểm thu phí, thì hợp đồng bảo hiểm không thể bị coi là hết hiệu lực với lý do chậm đóng phí bảo hiểm.
Căn cứ vào các quy định có sẵn của pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự, cụ thể là quy định về việc bên có nghĩa vụ không có lỗi trong vi phạm nghĩa vụ thì không phải chịu trách nhiệm dân sự (khoản 1 Điều 309 BLDS 1995) hoặc quy định về việc bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền (khoản 3 Điều 308 BLDS 1995) thì không phải chịu trách nhiệm dân sự.
Theo điểm a khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Khoản 2 Điều 35 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định trường hợp bên mua bảo hiểm đã đóng một hoặc một số lần phí bảo hiểm nhưng không thể đóng được các khoản phí bảo hiểm tiếp theo thì sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày gia hạn đóng phí, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dưới hai năm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Theo khoản 3 Điều 308 BLDS 1995, người có nghĩa vụ mà không thực hiện thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với người có quyền trừ trường hợp nghĩa vụ dân sự không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên về quyền. Trong vụ việc nêu tại án lệ, nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đúng hạn không được thực hiện là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền (doanh nghiệp bảo hiểm) bởi lẽ nhân viên của doanh nghiệp đã không đến nhà bên mua bảo hiểm để thu phí như đã thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 309 BLDS 1995 cũng quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy định này cho thấy trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, bên có nghĩa vụ chỉ chịu trách nhiệm đối với việc không thực hiện nghĩa vụ khi có lỗi (cố ý hoặc vô ý).
Trong vụ án nêu tại Án lệ số 23, rõ ràng rằng người mua bảo hiểm hoàn toàn không có lỗi trong việc không đóng phí bảo hiểm đúng hạn. Cũng không có quy định nào của pháp luật hoặc thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm về trách nhiệm đối với việc chậm đóng phí bảo hiểm, là trách nhiệm không phụ thuộc vào việc bên mua bảo hiểm có lỗi hay không có lỗi. Do đó, căn cứ điều luật trên thì bên mua bảo hiểm cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự đối với việc không đóng phí bảo hiểm đúng hạn.
Từ các căn cứ pháp luật nêu trên cho thấy doanh nghiệp bảo hiểm không thể buộc bên mua bảo hiểm phải chịu trách nhiệm dân sự do nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đúng hạn đã không được thực hiện. Điều đó có nghĩa không thể coi hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực với lý do phí bảo hiểm đã không được thanh toán đúng hạn vì việc không thanh toán đúng hạn không phải do lỗi của bên mua bảo hiểm và hơn nữa đó là hoàn toàn do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm.
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Điều 15 Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình. […]
Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20-01-1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
[…]
Chế độ tải sản vợ chồng (các điều 15, 16, 17, 18 và 42).
Tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng.
[…]. Nếu là việc mua, bán, cầm cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp đồng viết (như việc mua, bán nhà) thì vợ và chống đều phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thi phải có sự ủy nhiệm của vợ, chồng cho mình ký thay.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
[…]
Tài sản chung của vợ chồng được chỉ dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03-10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
Điều 4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ, chồng
Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng …. phải tuân theo hình thức nhất định, thì sự thỏa thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực)
Bộ luật Dân sự năm 1995
Điều 176. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
[…]
Được chuyển giao quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; …
Điều 154. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện
Giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện chấp thuận; [..]
Điều 155. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người. được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện chấp thuận; […]
Bộ luật Dân sự năm 2005
Điều 145. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyển, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trở trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. […]
Điểu 146. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; …
Điều 234. Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận
Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm chuyển giao tài sản, nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
[…]
Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: minh
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Bộ luật Dân sự năm 2015
Điều 142. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; […]
Điều 143. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đồng ý;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý
Điều 223. Xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng
Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thi có quyền sở hữu tài sản đó.
II.PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN
Trong Án lệ số 04, hợp đồng chuyển nhượng nhà đất chỉ do người chồng ký, mà không có đủ chữ ký của hai vợ chồng cũng không có văn bản ủy quyền của người liên quan đến việc ký hợp đồng. Người vợ cho rằng không biết về việc chuyển nhượng đó nhưng các chứng cứ cho thấy người vợ đã biết việc chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng đã nhận, sử dụng nhà đất và sửa chữa nhà mà không phản đối. Ngoài ra, người vợ cùng chồng đã nhận đầy đủ số tiền chuyển nhượng.
Trong phần “Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ” chỉ dẫn chiếu đến quy định tại khoản 2 Điều 176 BLDS 1995 về căn cứ xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận. Tuy nhiên, trong tình huống án lệ, giao dịch chuyển nhượng nhà đất của người chồng thuộc quyền sử dụng (đối với đất) và sở hữu (đối với nhà) chung của vợ chồng không có sự ủy quyền của người vợ cho người chồng đại diện mình để ký kết giao dịch đó. Như vậy, rõ ràng là người chồng đã xác lập, thực hiện giao dịch đó không có thẩm quyền đại diện cho người vợ, hợp đồng chỉ có chữ ký của chồng/vợ.
Tại thời điểm xác lập giao dịch nêu trên, căn cứ Điều 154 BLDS 1995 như đã dẫn chiếu ở trên thì giao dịch đó không phát sinh nghĩa vụ của người được đại diện (người vợ) chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà, trừ trường hợp người được đại diện (người vợ) chấp thuận. Theo quy định này, sự “chấp thuận” phải được hiểu là sự chấp thuận sau khi giao dịch đã được xác lập và thực hiện. BLDS 1995 không làm rõ khái niệm thế nào là chấp thuận. Tuy nhiên, việc người vợ đã cùng nhận số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đã biết về việc người nhận chuyển nhượng về ở và sửa chữa nhà trên đất đó mà không có sự phản đối của người vợ tại thời điểm đó thì rõ ràng cho thấy người vợ (người được đại diện) đã chấp thuận việc xác lập và thực hiện việc chuyển nhượng nhà đất được thực hiện bởi người chồng đại diện cho mình mặc dù người chồng không có quyền đại diện. Như vậy, căn cứ Điều 154 BLDS 2015, người vợ có nghĩa vụ đối với việc xác lập và thực hiện việc chuyển nhượng nhà đất đó.
Thông qua Án lệ số 04, khái niệm “chấp thuận” cần được hiểu ở nghĩa rộng, cụ thể là bao gồm “biết mà không phản đối”. Chúng tôi cho rằng có lẽ án lệ này cũng đã tính đến quy định của pháp luật tại thời điểm ban hành án lệ. Cụ thể là theo điểm b khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý. Quy định này đã thay thế quy định về “người được đại diện chấp thuận” tại BLDS 1995 áp dụng vào thời điểm xác lập và thực hiện giao dịch trong vụ án được nêu tại án lệ.
Chúng tôi cho rằng Án lệ số 04 với nội dung “giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác của vợ chồng mà pháp luật quy định cần phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng nhưng được xác lập và thực hiện chỉ bởi vợ hoặc chồng vẫn được coi là có hiệu lực” trong phạm vi giới hạn và đối với các vụ án có những tình tiết cơ bản sau đây:
Người vợ hoặc chồng không xác lập, thực hiện giao dịch nhưng đã biết mà không phản đối việc xác lập và thực hiện giao dịch đó; và
(ii) Người nhận chuyển nhượng đã thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch.
Án lệ 04 gợi mở hướng giải quyết cho việc xét điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và hậu quả do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền, song vẫn xác định giao dịch dân sự có hiệu lực nếu có 2 yếu tố sau:
Người được đại diện đó có biết mà không phản đối giao dịch đó hay không?
Và bên còn lại đã thực hiện hết các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch chưa?
Liên hệ Luật STC để được luật sư tư vấn miễn phí về tranh chấp hợp đồng
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp hết thời hạn thử việc mà người sử dụng lao động không có thông báo về kết quả thử việc, không có chứng cứ chứng minh người sử dụng lao động và người lao động gia hạn thời gian thử việc, người lao động vẫn tiếp tục làm việc và người sử dụng lao động nhận thức rằng sau khi kết thúc thời gian thử việc (60 ngày) nếu chưa ký hợp đồng lao động thì người lao động được làm việc chính thức theo loại hợp đồng xác định thời hạn 12 tháng, được coi là người sử dụng lao động và người lao động đã ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn 12 tháng.
1/Quy định pháp luật có liên quan
1.1. Nghị định 44/2003/NĐ-CP
Điều 7. Người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận về việc làm thử quy định tại Điều 32 của Bộ luật Lao động được quy định như sau:
Thời gian thử việc không được quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên.
Thời gian thử việc không được quá 30 ngày đối với chức danh nghề cần trình độ trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ.
Thời gian thử việc không được quá 6 ngày đối với những lao động khác.
Hết thời gian thử việc, người sử dụng lao động thông báo kết quả làm thử cho người lao động. Nếu đạt yêu cầu hai bên phải tiến hành ký kết hợp đồng lao động hoặc người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức.
Nghị định 44/2013/NĐ-CP
Điều 13. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013.
Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao động và các quy định trước đây trái với quy định tại Nghị định này hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực.
Bộ luật lao động 2012
Điều 26. Thử việc
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc.
Nội dung của hợp đồng thử việc gồm các nội dung quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, g và h khoản 1 Điều 23 của Bộ luật này.
Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ thì không phải thử việc.
Điều 27. Thời gian thử việc
Thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc 01 lần đối với một công việc và bảo đảm các điều kiện sau đây:
Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ.
Không quá 6 ngày làm việc đối với công việc khác.
Điều 29. Kết thúc thời gian thử việc
Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.
Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.
Bộ Luật lao động 2019
Điều 24. Thử việc
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng thử việc gồm thời gian thử việc và nội dung quy định tại các điểm a, b, c, đ, g và h khoản 1 Điều 21 của Bộ luật này.
Không áp dụng thử việc đối với người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng.
Điều 25. Thời gian thử việc
Thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây:
Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;
Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;
Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.
Điều 27. Kết thúc thời gian thử việc
1.Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động.
Trường hợp thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng thử việc.
Trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết hoặc hợp đồng thử việc.
2.Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường.
2.Phân tích bình luận
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Lao động 2012 thì hết thời hạn thử việc người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động với người lao động trong trường hợp việc làm thử đạt yêu cầu. Không có quy định nào trong Bộ luật này về việc nếu hết thời hạn thử việc mà người lao động không được thông báo kết quả thử việc và tiếp tục làm việc thì xử lý như thế nào.
Trước đó, tại khoản 4 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09-5-2003 như trích dẫn ở trên có quy định trường hợp hết thời gian thử việc người lao động không được thông báo kết quả thử việc và tiếp tục làm việc thì người lao động đương nhiên được coi là người lao động chính thức và hai bên coi như đã giao kết hợp đồng lao động.
Tuy nhiên, theo Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10-5-2013 thì Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09-5-2003 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2013. Án lệ áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 7 Nghị định 44/2003/NĐ-CP, bởi quy định này không được đặt ra tại nghị định định 44/2013/NĐ-CP, vì vậy quy định cũ không trái với quy định mới, như vậy quy định cũ không bị hết hiệu lực pháp luật dù đã có văn bản mới thay thế.
Căn cứ để HĐTP TANDTC dựa ra kết luận pháp lý tại án lệ này bao gồm hai tình tiết cơ bản:
không có chứng cứ chứng minh hai bên đã gia hạn thời gian thử việc;
người sử dụng lao động nhận thức rằng nếu hết thời hạn thử việc mà người lao động tiếp tục làm việc nhưng chưa ký hợp đồng lao động thì người lao động được làm việc chính thức theo loại hợp đồng xác định thời hạn 12 tháng.
Về tình tiết (i) nêu trên (không có chứng cứ chứng minh hai bên đã gia hạn thời hạn thử việc), chúng tôi cho rằng tình tiết này không quan trọng và thực chất là không cần thiết. Bởi lẽ, Điều 27 Bộ luật Lao động 2012 đã quy định rõ là “chỉ được thử việc một lần”, nghĩa là không được phép gia hạn thời gian thử việc. Vậy tại sao HĐTP TANDTC lại đề cập đến tình tiết này? Chúng tôi cho rằng, có lẽ việc nêu tình tiết này để chứng minh một điểm duy nhất là người lao động nhận thức rằng đã trở thành người lao động chính thức mà không phải là đang tiếp tục thử việc. Vấn đề này liên quan đến tình tiết (ii) sẽ phân tích dưới đây.
Như vậy, chỉ còn tình tiết (ii) nêu trên (người sử dụng lao động nhận thức rằng nếu hết thời hạn thử việc mà người lao động tiếp tục làm việc nhưng chưa ký hợp đồng lao động thì người lao động được làm việc chính thức theo loại hợp đồng xác định thời hạn 12 tháng) là căn cứ để coi rằng hai bên đã ký kết hợp đồng lao động.
Chúng tôi cho rằng HĐTP TANDTC đã hợp lý khi đưa ra kết luận như vậy. Bởi lẽ, tại thời điểm kết thúc thời gian thử việc, khi người lao động tiếp tục làm việc cho người sử dụng lao động, người lao động ý thức rằng quan hệ lao động vẫn tiếp tục mà quan hệ đó không phải là quan hệ thử việc. Còn đối với người sử dụng lao động, người sử dụng lao động cũng ý thức rằng người lao động đang làm việc cho mình theo quan hệ lao động có thời hạn xác định là 12 tháng. Và như vậy, về bản chất hai bên đều đã xác lập quan hệ lao động (hợp đồng) mặc dù chưa ký kết hợp đồng lao động.
Căn cứ duy nhất để đưa ra kết luận của Án lệ số 20 là phải có chứng cứ chứng minh về ý thức chủ quan của cả hai bên (người sử dụng lao động và người lao động) tại thời điểm kết thúc thời hạn thử việc là: nếu người lao động tiếp tục làm việc cho người sử dụng lao động thì mỗi bên đều coi việc tiếp tục làm việc đó không còn là thử việc, mà là theo hợp đồng lao động chính thức cho dù hai bên chưa ký kết hợp đồng lao động.
Liên hệ Luật STC để được tư vấn về pháp luật lao động
Mọi thắc mắc liên quan, mời Quý Khách liên hệ: Công ty Luật TNHH STC
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà AC, Ngõ 78, Phố Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Landmark 81, Vinhomes Central Park, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh và số 720A Điện Biên Phủ, phường 22, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.