Chiếm hữu ngay tình

Giao dịch dân sự chính là công cụ hữu hiệu để các chủ thể tìm kiếm và trao đổi lợi ích với nhau nhưng thực tế cho thấy, đôi khi chủ thể đã xác lập, thực hiện một giao dịch dân sự nhưng lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn mặc dù họ hoàn toàn thiện chí và ngay thẳng khi tham gia vào giao dịch đó. Nhà làm luật gọi những chủ thể này là người thứ ba ngay tình. Bài viết dưới đây phân tích những quy định của Bộ luật dân sự hiện hành (BLDS) về chiếm hữu ngay tình.

BLDS quy định về khái niệm chiếm hữu ngay tình tại Điều 180 như sau:

Điều 180. Chiếm hữu ngay tình
Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”.

Một số đặc điểm của chiếm hữu ngay tình:

  • Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó (khoản 3 Điều 131).
  • Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
  • Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
  • Trong trường hợp trên chủ sở hữu có thể khởi kiện yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập hoàn trả lại các chi phí và bồi thường thiệt hại
  • Đối với nguyên vật liệu chiếm hữu đã tạo ra sản phẩm khác thì chủ sở hữu nguyên vật liệu là chủ sở hữu ngay tình của sản phẩm
  • Nếu sử dụng nguyên vật liệu của người khác và ngay tình trở thành chủ sở hữu thì phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu đó
  • Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại. 

Chuyển giao nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự năm 2015

Chuyển giao nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có nghĩa vụ không tự mình thực hiện nghĩa vụ đã giao kết mà chuyển giao cho người khác (người thế nghĩa vụ) thực hiện nghĩa vụ giữa mình với bên mang quyền với điều kiện có sự đồng ý của chủ thể đó. Người có nghĩa vụ đã chuyển giao chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với bên mang quyền và không phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ. Bài viết trình bày những quy định của pháp luật về chuyển giao nghĩa vụ.

1. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự

Chuyển giao nghĩa vụ được quy định tại Điều 370 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) theo đó, người có nghĩa vụ không tự mình thực hiện nghĩa vụ đã giao kết mà chuyển giao cho người khác (người thế nghĩa vụ) thực hiện nghĩa vụ giữa mình với bên mang quyền với điều kiện có sự đồng ý của chủ thể đó. Người có nghĩa vụ đã chuyển giao chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với bên mang quyền và không phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ.
Như vậy, về bản chất, sự chuyển giao nghĩa vụ dân sự là sự chuyển dịch nghĩa vụ pháp lý từ chủ thể chuyển sang chủ thể nhận. Chủ thể nhận nghĩa vụ chính là người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước và trở thành bên có nghĩa vụ. Khi chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm đó cũng chấm dứt do sự chấm dứt tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

1.1. Điều kiện chuyển giao nghĩa vụ dân sự

Điều 370 BLDS quy định về chuyển giao nghĩa vụ dân sự, như sau:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm chấm dứt quan hệ giữa bên có nghĩa vụ ban đầu với bên có quyền làm phát sinh nghĩa vụ của người nhận chuyển giao với bên có quyền đó. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ đó vẫn phải gắn với lợi ích của bên có quyền nên mặc dù được chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba nhưng phải thỏa mãn các điều kiện sau:
– Nghĩa vụ được chuyển giao phải là nghĩa vụ có hiệu lực pháp lý và không thuộc những trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao nghĩa vụ.
Nghĩa vụ dân sự phải là những nghĩa vụ hợp pháp, phát sinh từ các căn cứ theo quy định của pháp luật và có thể thực hiện được trên thực tế.
Theo quy định của pháp luật, không được phép chuyển giao nghĩa vụ dân sự trong trường hợp nghĩa vụ “gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ” hoặc pháp luật quy định không được chuyển giao (như trường hợp nghĩa vụ đang có tranh chấp). Về nguyên tắc, các quyền nhân thân trong quan hệ pháp luật dân sự không được phép chuyển dịch cho người khác. Tương tự như vậy, khi một bên mang quyền nhân thân gắn liền với tài sản phải tạo ra một nghĩa vụ nhân thân của người khác và nghĩa vụ nhân thân này cũng không được chuyển giao cho người khác. Các trường hợp nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao như nghĩa vụ cấp dưỡng (đối với những người có quan hệ huyết thống, có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau theo quy định của pháp luật) hoặc các bên đã thỏa thuận phải do chính người đó thực hiện (dựa vào đặc điểm nhân thân của người đó có tính quyết định đến khả năng và chất lượng thực hiện công việc).
– Việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự phải có sự đồng ý của bên có quyền, vì suy cho đến cùng, việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ và việc lựa chọn người gánh vác nghĩa vụ thay thế cho người trước đó chính là lựa chọn rủi ro cho người mang quyền. Do vậy, pháp luật quy định bắt buộc phải có sự đồng ý của bên có quyền nhằm loại bỏ rủi ro đó. 
1.2. Hình thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về hình thức chuyển giao nghĩa vụ. Tuy nhiên từ các nguyên tắc cơ bản và các hình thức giao kết hợp đồng trong giao lưu dân sự và thương mại, có thể hiểu việc chuyển giao nghĩa vụ cũng được thực hiện thông qua hai hình thức là bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Nhằm tránh những nguy cơ có thể dẫn đến những rủi ro liên quan đến quyền lợi của các bên trong chuyển giao nghĩa vụ dân sự, những nội dung chuyển giao và cách thức, trình tự chuyển giao nên được trình bày đầy đủ trong văn bản thỏa thuận giữa các bên. Những trường hợp mà nội dung hoặc đối tượng của nghĩa vụ chuyển giao có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp hay đối tượng của nghĩa vụ là những tài sản do Nhà nước quản lý, kiểm soát thì việc chuyển giao nghĩa vụ cần phải được thể hiện bằng văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép.
1.3. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ gây ra.
Theo quy định tại Điều 371 BLDS, chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được quy định như sau:

“Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trường hợp nghĩa vụ được chuyển giao, các biện pháp bảo đảm xác lập nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cũng đương nhiên chấm dứt, bởi vì biện pháp bảo đảm đó là bảo đảm cho chính hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Bởi vì, việc chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế nghĩa vụ sẽ làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt, bên thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với bên có quyền. Mặt khác, việc chuyển giao nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền, khi đó bên có quyền tự lựa chọn rủi ro cho chính mình trong việc chấp nhận bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi kèm theo biện pháp bảo đảm trong quan hệ nghĩa vụ trước đó thì khi chuyển giao cho bên thứ ba biện pháp bảo đảm này phải chấm dứt nếu không có sự thỏa thuận khác.

2. Phương thức chuyển giao nghĩa vụ dân sự

Phương thức chuyển giao nghĩa vụ có thể được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Về chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận:
Để có thể chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận thì cần có sự thống nhất ý chí của người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ. Sẽ không có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận nếu người thế nghĩa vụ không đồng ý về việc này, họ sẽ không trở thành người có nghĩa vụ đối với người có quyền nếu họ không đồng ý. Chuyển giao nghĩa vụ do đó là một thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ nhằm thực hiện một nghĩa vụ đang tồn tại vì lợi ích của người có quyền và làm chấm dứt trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền.
– Về chuyển giao nghĩa vụ theo pháp luật:
Thông thường, để có chuyển giao nghĩa vụ dân sự thì cần có thỏa thuận giữa bên có nghĩa vụ và bên thế nghĩa vụ, đồng thời việc này cần có sự đồng ý của người có quyền. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn có những quy định cho chuyển giao nghĩa vụ dân sự mà không có sự thỏa thuận hay ưng thuận nêu trên. Cụ thể, theo quy định của BLDS, khi cá nhân chết, nghĩa vụ về tài sản của cá nhân không đương nhiên chấm dứt và vấn đề xác định người thế nghĩa vụ được đặt ra. Điều 614 BLDS5 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”; và khoản 1 Điều 615 BLDS thì: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, khi những người thừa kế nhận di sản thừa kế thì phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản mà người chết để lại. Việc chuyển giao nghĩa vụ trong trường hợp này không cần có sự ưng thuận của những người liên quan.

Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự

Trong tố tụng dân sự, không chỉ đương sự đưa ra yêu cầu mà ngay cả đương sự phản đối yêu cầu cũng có nghĩa vụ chứng minh. Đương sự phản đối yêu cầu phải chứng minh để làm rõ vấn đề: tại sao không chấp nhận yêu cầu của đối phương và muốn bác bỏ yêu cầu đó. Bài viết tập trung làm rõ nghĩa vụ chứng minh và một số trường hợp không phải chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS).

1. Các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ một số trường hợp luật quy định không có nghĩa vụ chứng minh.

Theo quy định của BLTTDS, yêu cầu của đương sự có thể xác định cụ thể, đó là: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.

Trong tố tụng dân sự, không chỉ đương sự đưa ra yêu cầu mà ngay cả đương sự phản đối yêu cầu cũng có nghĩa vụ chứng minh. Đương sự phản đối yêu cầu phải chứng minh để làm rõ vấn đề: tại sao không chấp nhận yêu cầu của đối phương và muốn bác bỏ yêu cầu đó. Đương sự phản đối yêu cầu cũng phải thuyết phục tòa án rằng mình không xâm phạm đến quyền lợi của đương sự có yêu cầu; từ đó tòa án mới có căn cứ, cơ sở để bác bỏ yêu cầu mà phía bên kia đưa ra. Đương sự phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, các lý lẽ, lập luận để chứng minh cho việc phản đối đó là đúng đắn và có cơ sở.

 Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Trong trường hợp đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.

2. Những trường hợp đương sự không phải chứng minh

Đương sự được loại trừ một phần nghĩa vụ chứng minh

Khoản 1 Điều 91 BLTTDS có quy định hoàn toàn mới về những trường hợp đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh.

Cụ thể: 

  • Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh được đảo ngược cho bên bị kiện – bên bị kiện phải chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại. 
  • Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án. Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

Ngoài ra, để tránh bỏ sót các trường hợp mà luật nội dung có quy định về trường hợp không phải chứng minh, Điều 91 có quy định một điều khoản “quét” với nội dung: “Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh”. 

3. Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh

Theo Điều 92 BLTTDS thì những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh trong tố tụng dân sự:

   – Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận;

   – Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;

   – Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.

   – Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.

   – Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện.

4. Xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng

   Điều 489 BLTTDS năm 2015 cũng quy định rõ về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng.

   Người nào có một trong các hành vi sau đây thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật:

   – Làm giả, hủy hoại chứng cứ quan trọng gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án của Tòa án;

   – Từ chối khai báo, khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật khi làm chứng;

   – Từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng, kết luận giám định sai sự thật;

   – Cố ý dịch sai sự thật;

   – Không cử người tham gia Hội đồng định giá theo yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng; không tham gia thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng định giá mà không có lý do chính đáng;

   – Cản trở người tiến hành tố tụng tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, giám định hoặc xác minh, thu thập chứng cứ khác do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định;

   – Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối;

   – Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định kết luận sai với sự thật khách quan;

   – Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch dịch không trung thực, không khách quan, không đúng nghĩa.

Trình tự thủ tục sang tên sổ đỏ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi chung là Sổ đỏ) là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Bài viết dưới đây phân tích trình tự thủ tục sang tên sổ đỏ.

Căn cứ Khoản 6 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013 thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, người sử dụng đất phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động.

Người dân có nhu cầu đăng ký biến động đất đai sau khi nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của cá nhân thực hiện như sau:

Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ

Người sử dụng đất chuẩn bị 01 bộ hồ sơ đăng ký biến động đất đai bao gồm các loại giấy tờ sau đây:

(1) Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK (ban hành kèm theo Thông tư 24/2014/TT-BTNMT).

(2) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.

(3) Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp.

(4) – Tờ khai thuế thu nhập cá nhân theo Mẫu 03/BĐS-TNCN ban hành kèm theo Thông tư 92/2015/TT-BTC (áp dụng đối với trường hợp người chuyển nhượng là hộ gia đình, cá nhân).

– Trường hợp thuộc diện miễn thuế thu nhập cá nhân thì phải có các giấy tờ làm căn cứ xác định thuộc đối tượng được miễn thuế theo quy định.

(5) – Bản chính Tờ khai lệ phí trước bạ nhà, đất theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định 140/2016/NĐ-CP.

– Bản sao hợp lệ các giấy tờ chứng minh tài sản (hoặc chủ tài sản) thuộc diện miễn lệ phí trước bạ (nếu có).

Bước 2: Nộp hồ sơ

Người sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ đăng ký biến động đất đai cho Văn phòng đăng ký đất đai/Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai (nơi có đất) để được giải quyết đăng ký biến động theo thẩm quyền.

Văn phòng đăng ký đất đai/Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai sẽ gửi thông tin địa chính đến cơ quan thuế để xác định và thông báo thu nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định cho người sử dụng đất.

Bước 3: Nộp thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ

Sau khi nhận được thông báo nộp thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ của cơ quan thuế, người sử dụng đất thực hiện nộp tiền thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ vào ngân sách nhà nước và gửi các chứng từ nộp thuế, lệ phí trước bạ hoặc xác nhận của cơ quan thuế về việc được miễn thuế, lệ phí trước bạ cho Văn phòng đăng ký đất đai/Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai nơi đã nộp hồ sơ đăng ký biến động.

Bước 4: Nhận kết quả

Người sử dụng đất sẽ nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được xác nhận nội dung biến động hoặc giấy chứng nhận mới trong trường hợp giấy chứng nhận cũ không còn chỗ trống để xác nhận nội dung biến động.

Thừa kế đối với đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

1.Trường hợp đất không có GCNQSDĐ nhưng có một số loại giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất khác.

Theo quy định của pháp luật nếu người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ thuộc khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 hoặc thuộc Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP sẽ được cấp quyền sử dụng đất. Do đó, đất không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng nếu thuộc một trong các trường hợp này thì vẫn được coi là di sản theo quy định pháp luật và sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử đất, chia thừa kế.

2. Trường hợp đất không có GCNQSDĐ và không có các loại tờ để chứng minh quyền sử dụng đất.

Căn cứ vào khoản 1.3 Chương II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định về xác định quyền sử dụng đất là di sản thì nếu đất không có GCN QSDĐ và cũng không có các giấy tờ để chứng minh quyền sử đụng đất nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

– Trong trường hợp đương sự có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

– Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

– Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

Thủ tục khởi kiện vụ án dân sự

Vì quan hệ dân sự xuất phát từ sự thỏa thuận ý chí giữa các bên, do đó khi có tranh chấp xảy ra mà không thỏa thuận, thương lượng được, các bên có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trình tự thủ tục khởi kiện vụ án dân sự được quy định rất chi tiết và cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS). Trong bài viết dưới đây, Luật STC chỉ giới thiệu những nét cơ bản nhất.

1.Quyền khởi kiện vụ án dân sự

  • Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
  • Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.

2. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự

  • Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
  • Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
  • Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quy định tại BLTTDS có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

3. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự

Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 26 BLTTDS 2015 bao gồm:

  • Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
  • Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
  • Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
  • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp các bên đều có mục đích lợi nhuận.
  • Tranh chấp về thừa kế tài sản.
  • Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
  • Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
  • Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
  • Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
  • Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí.
  • Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
  • Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  • Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  • Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

4. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của BLDS 2015.

5. Án phí, lệ phí Tòa án đối với việc giải quyết vụ án dân sự

Giá trị tài sản tranh chấp Mức án phí
Từ 4.000.000 đồng trở xuống; 200.000 đồng
Từ trên 4.000.000 đồng đến400.000.000 đồng ; 5% giá trị tài sản có tranh chấp.
Từ trên 400.000.000 đồng đến800.000.000 đồng; 20.000.000 đồng 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng.
Từ trên 800.000.000 đồng đến2.000.000.000 đồng; 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng
Từ trên 2.000.000.000 đồng đến4.000.000.000 đồng; 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng.
Từ trên 4.000.000.000 đồng; 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng.

Để biết rõ hơn về các vấn đề liên quan đến việc khởi kiện vụ án dân sự, quý Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với Công ty chúng tôi để được tư vấn chi tiết.

 

Công nhận cha cho con

Thủ tục yêu cầu công nhận cha conlà thủ tục cần thiết nhằm mục đích giúp cho quan hệ cha con được pháp luật công nhận, cha con ruột có thể hưởng các quyền được quy định trong pháp luật liên quan như quyền nuôi dưỡng, quyền thừa kế….

1. Quyền nhận cha cho con

Quyền nhận cha cho con được quy định tại Điều 90 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (LHNGĐ) như sau:

Điều 90. Quyền nhận cha, mẹ
1. Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2. Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha”.

2. Cơ quan có thẩm quyền công nhận quan hệ cha con

Điều 92. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết

Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.”

  • Cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con bao gồm: 
    Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
  • Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này. Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”

3. Hồ sơ yêu cầu

Hồ sơ gồm có:

  • Đơn khởi kiện yêu cầu xác định cha, mẹ con;
  • CMND, sổ hộ khẩu của các bên;
  • Giấy tờ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con;

 

 

Chấm dứt nuôi con nuôi

Nuôi con nuôi là một quy định thể hiện tính nhân văn của hệ thống pháp luật Việt Nam. Khi nhận con nuôi cũng như chấm dứt việc nuôi con nuôi đều phải tiến hành theo trình tự thủ tục nhất định. Bài viết dưới đây làm rõ những quy định pháp luật về việc chấm dứt nuôi con nuôi.

1. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi

Khi chấm dứt nuôi con nuôi cần phải dựa vào các căn cứ luật định tại Điều 25 của Luật nuôi con nuôi 2010 như sau:

“Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

  1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
  2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
  3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
  4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này”.

Trường hợp vi phạm quy định tại Điều 13 là các trường hợp bị cấm theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi, bao gồm:

  • Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em.
  • Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.
  • Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
  • Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số.
  • Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
  • Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi.
  • Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Như vậy, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì sẽ có căn cứ chấm dứt nhận nuôi con nuôi.

2. Trình tự, thủ tục chấm dứt nuôi con nuôi

Căn cứ Điều 26 Luật Nuôi con nuôi và thực tế tình huống,  người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi có thể là: Cha mẹ nuôi hoặc người giám hộ của con nuôi. 

+ B1: Gửi đơn yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi lên cơ quan có thẩm quyền

+ B2: Hồ sơ gồm có:

  Hồ sơ yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi bao gồm:

  • Đơn yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
  • Chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có giá trị tương đương;
  • Giấy chứng nhận nuôi con nuôi;
  • Sổ hộ khẩu;
  • Các tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (nếu có).

+ B3: Cơ quan có thẩm quyền thụ lý và giải quyết yêu cầu

      Tòa án sẽ triệu tập bạn để nộp tiền lệ phí giải quyết yêu cầu đó. Sau khi tiến hành xong các thủ tục trên, Tòa án sẽ xem xét tính hợp lệ của đơn yêu cầu. Nếu có căn cứ chấm dứt việc nhận con nuôi thì Tòa án có thẩm quyền ra quyết định giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của bạn.

3. Hậu quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi

Hậu quả phát sinh sau khi có quyết định của Tòa án về việc chấm dứt nuôi con nuôi được pháp luật quy định như sau:

  • Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
  • Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.
  • Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định.
  • Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
  • Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.

Cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật

Theo quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS), người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế… Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một số người thừa kế của người lập di chúc, Điều 644 đã quy định các chủ thể được quyền hưởng di sản thừa kế là hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. 

Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”.

Trong đó các hàng thừa kế được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 651 BLDS. Đặc biệt, khoản 2, khoản 3 Điều 651 BLDS nêu rõ: Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau; những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Do đó, suất của một người thừa kế là phần di sản mà một người thừa kế ở các hàng thừa kế nêu trên được hưởng khi di sản của một người được chia theo pháp luật trong trường hợp:

– Không có di chúc, di chúc không hợp pháp;

– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

– Người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không được quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Như vậy, để xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật, phải biết được tổng giá trị di sản thừa kế mà một người để lại, số lượng người thừa kế được hưởng di sản thừa kế đó. Khi đó, công thức tính suất của một người thừa kế theo pháp luật như sau:

Suất của một người thừa kế theo pháp luật = Tổng giá trị di sản thừa kế / số người hưởng di sản thừa kế hợp pháp

Như đã phân tích ở trên, Điều 644 BLDS nêu rõ, con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản chia theo pháp luật một trong hai trường hợp:

– Những đối tượng trên không được người lập di chúc cho hưởng di sản;

– Những đối tượng trên chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất trong di chúc.

Căn cứ cách tính suất của một người thừa kế theo pháp luật đã nêu ở trên thì con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động được hưởng di sản thừa kế như sau:

Di sản được hưởng = 2/3 x (Tổng giá trị di sản thừa kế / số người hưởng di sản thừa kế hợp pháp)

Trong đó:

Tổng giá trị di sản thừa kế: Là phần giá trị di sản thừa kế còn lại sau khi đã thanh toán các khoản chi phí liên quan đến thừa kế theo thứ tự nêu tại Điều 658 Bộ luật Dân sự:

– Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;

– Tiền cấp dưỡng còn thiếu;

– Chi phí cho việc bảo quản di sản;

– Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;

– Tiền công lao động;

– Tiền bồi thường thiệt hại;

– Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước;

– Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân;

– Tiền phạt;

– Các chi phí khác.

Số người hưởng di sản thừa kế hợp pháp: Là người thừa kế trong cùng hàng thừa kế thứ nhất hoặc hàng thừa kế thứ hai hoặc hàng thừa kế thứ ba (trừ người từ chối nhận di sản thừa kế và người không được quyền hưởng di sản theo khoản 2 Điều 644 BLDS) nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

 

Quy định về phạt vi phạm, bồi thường hợp đồng thương mại

Trong thực tế khi thực hiện hợp đồng, không phải lúc nào các bên cũng thiện chí thực hiện theo các điều khoản dẫn đến vi phạm hợp đồng. Do đó, để khắc phục hậu quả vi phạm, pháp luật quy định khi một trong các bên vi phạm thì bên còn lại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm hợp đồng. Bài viết dưới đây làm rõ hai quy định này.

1.Quy định của pháp luật hiện hành về phạt vi phạm hợp đồng và mức phạt vi phạm hợp đồng

1.1. Quy định về phạt vi phạm hợp đồng

– Điều 418 BLDS năm 2015 quy định về thỏa thuận phạt vi phạm như sau: 

“Điều 418. Thỏa thuận phạt vi phạm

1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.

2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”.

– Theo quy định tại Điều 300 Luật thương mại 2005 thì:

“Điều 300. Phạt vi phạm

Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”.

Từ các quy định nêu trên ta có thể thấy, căn cứ phạt vi phạm hợp đồng là:

  • Hợp đồng phải có hiệu lực;
  • Có hành vi vi phạm hợp đồng;
  • Các bên có thỏa thuận áp dụng phạt vi phạm.

Cụ thể:

– Hợp đồng có hiệu lực:

Các quy định về phạt vi phạm đều nằm trong phần thực hiện hợp đồng (BLDS 2015) và phần chế tài trong Luật Thương mại năm 2005. Điều này có nghĩa là phạt vi phạm chỉ có giá trị khi hợp đồng có hiệu lực. Khi hợp đồng có hiệu lực thì các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận mới có giá trị pháp lý ràng buộc giữa các bên. Nếu hợp đồng vô hiệu thì thỏa thuận phạt vi phạm cũng không có hiệu lực pháp luật.

– Có vi phạm nghĩa vụ:

Theo khoản 1 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ”.

Như vậy, với quy định trên thì bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

– Có thỏa thuận phạt vi phạm giữa các bên:

Giữa các bên phải có thỏa thuận phạt vi phạm, theo quy định của BLDS 2015 thì mức phạt do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Thỏa thuận phạt vi phạm được áp dụng khi có đủ 3 yếu tố hợp đồng có hiệu lực, có hành vi vi phạm hợp đồng và có thỏa thuận phạt vi phạm giữa các bên.

Khác với bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, nếu bồi thường thiệt hại người ta phải căn cứ vào yếu tố lỗi, và thiệt hại xảy ra thì phạt vi phạm hợp đồng không đề cập đến lỗi và cũng không quan tâm, xem xét thiệt hại xảy ra.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 418 BLDS năm 2015 thì mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Về nguyên tắc các bên có quyền tự do định đoạt mức phạt vi phạm trong hợp đồng, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Quy định này nhằm bảo đảm quyền tự do thỏa thuận điều khoản hợp đồng của các bên tham gia ký kết và đòi hỏi các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có ý thức trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng của mình.

 

1.2. Quy định về mức phạt vi phạm

Trường hợp luật liên quan có quy định mức phạt vi phạm thì mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận phải tuân theo quy định của luật này về mức phạt (không được vượt quá mức phạt luật quy định). Ví dụ:

+  Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này” (Điều 301)

và “Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định” (khoản 1 Điều 266).

+  Luật xây dựng 2014 quy định:

“Đối với công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm…” (khoản 2 Điều 146).

1.3. Giới hạn mức phạt vi phạm, xử lý trường hợp vượt mức phạt vi phạm luật định

Luật Thương mại năm 2005 và Luật xây dựng năm 2014 quy định mức phạt vi phạm. Tuy nhiên, cả hai luật này đều không quy định việc xử lý đối với trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá giới hạn thì sẽ xử lý như thế nào?

Bên cạnh đó, có nên giới hạn mứcphạt vi phạm 8% nghĩa vụ vi phạm, gấp 10 lần thù lao dịch vụ giám định như quy định của Luật thương mại 2005 hay 12% phần giá trị hợp đồng bị vi phạm như quy định của Luật xây dựng 2014 hay không?

Thực tiễn xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại, khi các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm trên 8% nghĩa vụ bị vi phạm, các Tòa án thường căn cứ vào Điều 301 Luật Thương mại 2005 để ấn định mức phạt tối đa là 8% nghĩa vụ bị vi phạm mà không có lập luận gì nhiều về phần vượt quá và đa số các bản án đều nhận định việc “thỏa thuận mức phạt cao hơn 8% nghĩa vụ bị vi phạm là không phù hợp”.

2. Quy định về bồi thường thiệt hại hợp đồng

Căn cứ theo quy định tại Điều 302, Luật thương mại năm 2005 thì bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự được quy định như sau:

Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng dây ra cho bên bị vi phạm.

Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thương mại

Điều 303 Luật thương mại năm 2005 đã quy định. Trừ những trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

– Có hành vi vi phạm hợp đồng

– Có thiệt hại thực tế

– Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại

Như vậy, từ những quy định nêu trên thì việc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại không căn cứ vào việc các chủ thể tham gia vào hợp đồng có thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại hay không mà chỉ cần có các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ được quy định tại Điều 303 của Luật thương mại 2005 thì bên vi phạm nghĩa vụ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra đối với bên có quyền.

0988873883